Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghệ thuật sân khấu cải lương Nam Bộ qua tác động của các phương thức quản lý
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
- 1 -
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM
Võ Thị Yến
NGHÖ THUËT S¢N KHÊU C¶I L¦¥NG NAM Bé
QUA T¸C §éNG CñA C¸C PH¦¥NG THøC QU¶N Lý
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Sân khấu
Mã số: 62 21 02 21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. Lê Thị Hoài Phƣơng
PGS.TS. Đào Mạnh Hùng
TS. Đỗ Thị Hƣơng
Hà Nội - 2013
- 2 -
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này do tôi viết. Đề tài và hướng nghiên cứu
không trùng lặp với đề tài nào trước đây. Nếu có gì sai phạm tôi xin chịu
hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng năm 2013
Tác giả luận án
Võ Thị Yến
- 3 -
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................................1
MỤC LỤC ............................................................................................................................3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN ..............................................4
MỞ ĐẦU...............................................................................................................................5
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ VỀ NGHỆ THUẬT
SÂN KHẤU CẢI LƢƠNG NAM BỘ...............................................................................13
1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ liên quan.......................................................13
1.2. Nghệ thuật sân khấu Cải lương trong môi trường tự nhiên
và môi trường xã hội Nam Bộ...............................................................................24
1.3. Diễn trình nghệ thuật sân khấu Cải lương Nam Bộ.......................................30
Tiểu kết..................................................................................................................47
Chƣơng 2: TÁC ĐỘNG CỦA NHỮNG PHƢƠNG THỨC QUẢN LÝ
TRONG DIỄN TRÌNH NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU CẢI LƢƠNG NAM BỘ..........50
2.1. Nghệ thuật sân khấu Cải lương Nam Bộ qua tác động của phương thức
quản lý tư nhân từ khi hình thành đến năm 1975..................................................50
2.2. Nghệ thuật sân khấu Cải lương Nam Bộ qua tác động của phương thức
quản lý Nhà nước từ năm 1975 đến nay ...............................................................93
Tiểu kết................................................................................................................111
Chƣơng 3: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PHƢƠNG THỨC QUẢN LÝ
NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU CẢI LƢƠNG NAM BỘ TRONG THỜI KỲ MỚI....113
3.1. Một số nhận định về tình hình thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động
của nghệ thuật sân khấu Nam Bộ........................................................................113
3.2. Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nghệ thuật sân khấu Cải lương
Nam Bộ trong giai đoạn mới...............................................................................129
Tiểu kết................................................................................................................145
KẾT LUẬN.......................................................................................................................147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ..150
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................151
- 4 -
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BCH : Ban chấp hành
CB - CNV : Cán bộ - Công nhân viên
CLB : Câu lạc bộ
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
GS.TS. : Giáo sư, Tiến sĩ
HĐND : Hội đồng Nhân dân
NSND : Nghệ sĩ Nhân dân
NSƯT : Nghệ sĩ Ưu tú
Nxb : Nhà xuất bản
PGS.TS : Phó Giáo sư, Tiến sĩ
TDTT : Thể dục thể thao
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
Tp. : Thành phố
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
- 5 -
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Được sinh ra từ cái gốc âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam, trong quá
trình hình thành và phát triển, nghệ thuật sân khấu Cải lương đã tiếp thu nhiều yếu
tố nghệ thuật từ sân khấu truyền thống dân tộc. Chịu sự chi phối của điều kiện lịch
sử, nghệ thuật sân khấu Cải lương còn tiếp thu nhiều yếu tố sân khấu của hý khúc
(Trung Quốc) và sân khấu phương Tây (kịch nghệ Pháp); trở thành một hình thức
sân khấu kịch hát Việt Nam thể hiện rõ tính năng động, sáng tạo, dễ thích ứng với
biến đổi của xã hội và thị hiếu của khán giả. Điều này lý giải vì sao ngay từ khi mới
ra đời nghệ thuật sân khấu Cải lương không những trở thành món ăn “đặc sản” của
người dân Nam Bộ mà còn nhanh chóng chiếm lĩnh sự ái mộ của các nghệ sĩ cũng
như khán giả miền Bắc và miền Trung, dẫn đến sự ra đời của nhiều gánh hát Cải
lương trong cả nước nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật sân khấu Cải
lương của đông đảo khán giả.
Đã có một thời, nghệ thuật sân khấu Cải lương bước lên đỉnh cao, được mọi
người, mọi giới quan tâm, yêu chuộng với những gánh hát mà tên tuổi của các bầu
gánh - những nhà quản lý giỏi được người trong và ngoài giới công nhận.
Tuy nhiên, trong giai đoạn đất nước ta bước vào thời kỳ Đổi mới, các hình
thức nghệ thuật sân khấu truyền thống nói chung, nghệ thuật sân khấu Cải lương nói
riêng buộc phải đối mặt với nhiều thách thức do cơ chế kinh tế thị trường và sự hội
nhập quốc tế ồ ạt mang đến. Thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề quan thiết như: Làm thế
nào để thu hút khán giả, nhất là khán giả trẻ, đến với sân khấu Tuồng, Chèo, Cải
lương, trong khi có biết bao hình thức nghệ thuật - giải trí mới mẻ, hiện đại của
nước ngoài đã và đang được du nhập vào Việt Nam một cách nhanh chóng nhờ vào
các phương tiện của công nghệ tiên tiến? Làm thế nào để vừa bảo tồn các giá trị
truyền thống độc đáo của bộ môn nghệ thuật sân khấu dân tộc, vừa cải tiến và phát
huy được chúng trong đời sống đương đại? Làm thế nào để nâng cao chất lượng
nghệ thuật của các vở diễn, đồng thời đạt được mục tiêu về kinh tế để nâng cao chất
lượng cuộc sống cho người nghệ sĩ hôm nay?
- 6 -
Hơn bao giờ hết, vấn đề đổi mới công tác quản lý càng trở nên quan trọng
đối với sự phát triển của nghệ thuật kịch hát dân tộc, trong đó có nghệ thuật sân
khấu Cải lương. Trước những đòi hỏi của thời kỳ Đổi mới, khi Đảng và Chính phủ
chủ trương nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, thì đối với lĩnh vực văn hóa
nghệ thuật cũng có chủ trương xã hội hóa hoạt động của nó. Đây là một chủ trương
lớn của Đảng và Nhà nước, phù hợp với quy luật vận động và phát triển của xã hội.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Đảng khóa VIII đã chỉ rõ:
Chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa nhằm động viên sức người,
sức của của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội để xây dựng và
phát triển văn hóa, chính sách này được tiến hành đồng thời với việc
nâng cao vai trò và trách nhiệm của nhà nước. Các cơ quan chủ quản
về văn hóa của Nhà nước phải làm tốt chức năng quản lý và hướng
dẫn nghiệp vụ đối với các hoạt động xã hội về văn hóa [51].
Nhằm huy động được sức người, sức của trong nhân dân, ngoài các đơn vị
Cải lương công lập, nhà nước cho phép các đơn vị Cải lương ngoài công lập hoạt
động. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, từ khi Nghị
quyết ban hành đến nay, hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực sân khấu Cải lương
tại Nam Bộ nói chung và Tp. Hồ Chí Minh nói riêng chưa được phát huy đồng bộ.
Thực tiễn hoạt động nghệ thuật sân khấu hôm nay cho thấy một điều rất cần quan
tâm và suy nghĩ, đó là, trong khi các sân khấu kịch tại Tp. Hồ Chí Minh trỗi dậy
và từng bước làm ăn có hiệu quả, thì sân khấu Cải lương hoạt động èo uột, cầm
chừng, chưa thấy điểm khởi đầu cho quá trình trở lại của một hình thức sân khấu
dân tộc có thời đã chiếm vị trí độc tôn trong thị hiếu của đông đảo khán giả.
Trong quá trình phát triển, nghệ thuật sân khấu Cải lương đã trải qua nhiều
bước thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc. Về phương thức hoạt động, quản lý, bắt
đầu từ bầu gánh, nghệ thuật sân khấu Cải lương đã trải qua các phương thức quản
lý: phương thức quản lý tư nhân, phương thức quản lý nhà nước, phương thức quản
lý linh hoạt về chủ thể quản lý của thời kỳ xã hội hóa hoạt động văn hóa nghệ thuật,
v.v... Qua việc khảo sát, đánh giá các phương thức quản lý của từng giai đoạn,
- 7 -
chúng tôi muốn tìm hiểu sự tác động của các phương thức quản lý và những ảnh
hưởng sâu sắc của chúng đến quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật sân khấu
Cải lương Nam Bộ. Từ kết quả khảo sát, chúng tôi đúc kết kinh nghiệm, xác định
những thành tựu và những tồn tại của các phương thức quản lý đối với hoạt động
sân khấu Cải lương Nam Bộ trong từng giai đoạn phát triển. Từ đó, luận án đề xuất
một số giải pháp về mô hình quản lý, nhằm góp phần vào việc củng cố và phát triển
nghệ thuật sân khấu Cải lương Nam Bộ ngày hôm nay và trong tương lai.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cải lương là một hình thức nghệ thuật sân khấu được rất nhiều nhà nghiên
cứu, văn nghệ sĩ quan tâm. Đã có nhiều công trình nghiên cứu viết về nghệ thuật
sân khấu Cải lương. Một số tác giả đã đề cập đến vấn đề quản lý, phương thức quản
lý của nghệ thuật sân khấu Cải lương.
Năm 1968, cuốn Hồi ký năm mươi năm mê hát, tác giả Vương Hồng Sển
được xuất bản gồm hai chương. Chương thứ nhất đề cập đến năm ra đời và nguồn
gốc của nghệ thuật sân khấu Cải lương [96, tr.31-32]. Trong chương này, cũng ghi
lại rất chi tiết những nghệ sĩ, những nhà chí sĩ, những bầu gánh có công đầu trong
việc hình thành nên hình thức nghệ thuật sân khấu Cải lương. Ở chương thứ hai, tác
giả đề cập đến tình hình hoạt động của các gánh hát, những câu chuyện về cuộc đời
và sự nghiệp sân khấu của các nghệ sĩ tài danh mà ông đã từng xem, từng gặp gỡ.
Theo chúng tôi, cuốn sách chứa đựng nhiều tư liệu có giá trị cao về bối cảnh xã hội,
người nghệ sĩ và các hoạt động nghệ thuật sân khấu ở Nam Bộ vào nửa đầu thế kỷ
XX. Vai trò các bầu chủ, những người có công trong việc hình thành nghệ thuật sân
khấu Cải lương cũng được tác giả đề cập tới [96, tr.107-117]. Được kể lại với hình
thức hồi ký, cuốn sách là một tư liệu đầy đủ và chi tiết nhất về lịch sử hình thành và
phát triển nghệ thuật sân khấu Cải lương từ những ngày đầu sơ khai đến những năm
60 của thế kỷ XX.
Năm 1970, cuốn Nghệ thuật sân khấu Việt Nam của Trần Văn Khải ra đời.
Cuốn sách được viết thành ba chương, mỗi chương trình bày một thể loại nghệ thuật
sân khấu nước nhà, đó là: Hát bội, Cải lương và Kịch. Chương hai đề cập đến lịch
- 8 -
sử Cải lương, những đặc điểm của Cải lương, các giọng Cải lương, văn Cải lương
và việc soạn bài ca, âm nhạc Cải lương và vị trí các nhạc khí [36, tr.87-90]. Cuốn
sách là nguồn tài liệu tham khảo về đặc điểm của các hình thức nghệ thuật sân khấu:
Hát bội, Cải lương và Kịch.
Năm 1989, NSND Ba Vân có cuốn Kể chuyện Cải lương. Trong tập hồi ký
này, NSND Ba Vân đã ghi chép về cuộc đời nghệ thuật bền bỉ qua hơn sáu mươi
năm hoạt động nghệ thuật sân khấu Cải lương của mình. Nội dung sách đề cập đến
các gánh hát và các bầu chủ mà nghệ sĩ đã từng quen biết, làm việc hoặc cộng tác
trong quá trình hoạt động sân khấu của ông [100, tr.74-78]. Ông cũng đề cập đến
các phong cách nghệ thuật của các gánh hát trong từng giai đoạn. Đặc biệt ông nhấn
mạnh tầm quan trọng của các soạn giả trong việc tìm ra những phong cách mới cho
gánh hát qua các thời kỳ khác nhau. Ông khẳng định, sân khấu Cải lương Nam Bộ
sau ngày đất nước thống nhất là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất, khẳng định và
tôn vinh vị trí, nhân cách của người nghệ sĩ trong xã hội mới [100, tr.190-191].
Năm 1997, công trình Nghệ thuật Cải lương những trang sử của Trương
Bỉnh Tòng (bút danh Hoài Linh) ra mắt bạn đọc. Bằng những tư liệu phong phú, kết
hợp với những hiểu biết, bằng mắt thấy, tai nghe và những ghi chép cá nhân của
một người đã hơn năm mươi năm hoạt động sân khấu Cải lương ở miền Nam, nhà
nghiên cứu Trương Bỉnh Tòng đã thể hiện ra trên những trang viết với tất cả tấm
lòng và trách nhiệm của một người nhiều năm gắn bó với bộ môn nghệ thuật Cải
lương. Ông không chỉ viết kịch bản Cải lương mà còn am tường âm nhạc, ca hát,
đồng thời còn là nhà quản lý nghệ thuật giàu kinh nghiệm nên có nhiều ưu thế khi
viết công trình lịch sử này.
Tuy kể chuyện lịch sử, nhưng tác giả còn làm cả việc đối chiếu những tư liệu
khác nhau từ những nhà xuất bản đến những nhà nghiên cứu đã được công bố làm
cho tác phẩm thêm phong phú. Một điểm rất quan trọng là ngoài việc đề cập đến
nguồn gốc, lịch sử phát triển của nghệ thuật sân khấu Cải lương, công trình còn đề
cập đến tính định hình, đặc trưng và phong cách thể loại của nghệ thuật sân khấu
Cải lương, nhấn mạnh vai trò của bầu gánh từ trước năm 1975 [90, tr.188-195] và
- 9 -
những thành tựu của nghệ thuật sân khấu Cải lương Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước sau ngày đất nước thống nhất.
Công trình Vang bóng một thời của Huỳnh Công Minh xuất bản năm 2007,
ghi lại những khoảnh khắc thành công của các nghệ sĩ, các soạn giả, các nhà quản lý
gánh hát qua ống kính của một nhà báo chuyên viết về nghệ thuật sân khấu Cải
lương Nam Bộ từ năm 1955 đến đầu những năm 2000. Chúng tôi rất tâm đắc với
đánh giá của GS.TS Trần Văn Khê về bộ sưu tập này: “một tài sản văn hóa nghệ
thuật độc nhất vô nhị, rất quý giá, phải được bảo tồn và lưu truyền cho các thế hệ
mai hậu hiểu biết về thời hoàng kim của một bộ môn nghệ thuật đặc thù của miền
Nam” [44, tr.5].
Cũng vào năm 2007, cuốn sách Sân khấu Cải lương ở thành phố Hồ Chí
Minh của Nguyễn Thị Minh Ngọc - Đỗ Hương đặt ra một trăm câu hỏi nghệ thuật
sân khấu Cải lương Sài Gòn - Tp. Hồ Chí Minh, giới thiệu cho người đọc những
vấn đề, sự kiện, nhân vật, v.v… nổi bật trong lịch sử phát triển của nghệ thuật sân
khấu Cải lương Sài Gòn - Tp. Hồ Chí Minh từ đầu thế kỷ XX. Đồng thời cũng kết
hợp giới thiệu tổng quan về Hát bội ở Tp. Hồ Chí Minh, một bộ môn nghệ thuật đã
thẩm thấu và tích hợp góp phần hình thành nên nghệ thuật sân khấu Cải lương. Đặc
biệt, cuốn sách còn hướng người đọc tới chỗ cùng suy nghĩ về xu thế thoái trào của
nghệ thuật sân khấu Cải lương trong thời điểm hiện nay [55, tr.191-193].
Công trình Ca nhạc và sân khấu Cải lương của nhạc sĩ Tuấn Giang được
xuất bản năm 1997 đã đi sâu cắt nghĩa về sự hình thành của nghệ thuật sân khấu Cải
lương và sự hình thành ca nhạc Tài tử Cải lương gắn với những giai đoạn lịch sử
[24, tr.16-31]. Tác giả cũng đồng thời phân tích, đánh giá về các mặt phát triển của
hình thức nghệ thuật sân khấu này [24, tr.92-94].
Năm 2000, Sân khấu Cải lương Nam Bộ của Đỗ Dũng đã ghi chép lại có tính
liệt kê về thời gian, sự kiện và các tiến trình chính của lịch sử Cải lương trong từng
giai đoạn phát triển từ năm 1918 đến năm 2000. Bởi lẽ, một hình thức nghệ thuật sân
khấu mang tính tổng hợp, một quá trình hình thành và phát triển rộng lớn, cả về thời
gian và không gian của nó nên khó mà tổng kết một cách đầy đủ. Song, công trình
- 10 -
này đặt ra vấn đề ít nhiều có liên quan đến vai trò của bầu chủ từ năm 1975 trở về
trước, và của các trưởng đoàn từ năm 1975 đến năm 2000 [17, tr.57-72].
Cũng năm 2000, cuốn sách Mấy vấn đề của sân khấu trong cơ chế thị
trường của Ngô Thảo được xuất bản, đề cập khái quát đến hoạt động biểu diễn nghệ
thuật của sân khấu Việt Nam qua các giai đoạn từ năm 1954 đến thời điểm công
trình ra đời [74, tr.17-18]. Tác giả cũng đi sâu nghiên cứu, so sánh những điều được
và mất, thành công và tồn tại của sân khấu Việt Nam trước và sau thời kỳ Đổi mới.
Những vấn đề các gánh hát, các bầu gánh, phương thức quản lý giai đoạn
đầu của Cải lương, gắn với những người có công trong việc hình thành bộ môn
nghệ thuật sân khấu Cải lương cũng được quan tâm ghi nhận trong các trang hồi ký
của các nghệ sĩ, soạn giả, v.v... Nhiều bài viết, tham luận khoa học các nhà nghiên
cứu, văn nghệ sĩ đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, các trang thông
tin, trên các trang web của hệ thống mạng internet, đi sâu nghiên cứu về lịch sử ra
đời, những chặng đường phát triển, những vấn đề đặt ra trên chặng đường phát
triển, những vấn đề về lĩnh vực thẩm mỹ, phương thức quản lý của nghệ thuật sân
khấu Cải lương.
Luận án sẽ tiếp tục đóng góp vào việc tìm hiểu, nghiên cứu quá trình hình
thành và phát triển của nghệ thuật sân khấu Cải lương Nam Bộ qua tác động của các
phương thức quản lý, xem xét mối tương tác của chúng đối với chủ thể nghệ thuật.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận án này được thực hiện với mục đích tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Cải
lương Nam Bộ, tìm hiểu sự tác động mạnh mẽ của các phương thức quản lý đối với
sự hình thành và phát triển nghệ thuật sân khấu Cải lương Nam Bộ. Từ kết quả
nghiên cứu, đánh giá những mặt mạnh cũng như những mặt còn tồn tại của sự tác
động này, đề xuất một số giải pháp đổi mới phương thức quản lý đơn vị nghệ thuật
sân khấu Cải lương Nam Bộ phù hợp với điều kiện thực tiễn hôm nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- 11 -
Đề tài hướng tới đối tượng nghiên cứu là nghệ thuật sân khấu Cải lương
Nam Bộ qua sự tác động của các phương thức quản lý; tầm ảnh hưởng sâu rộng
của các phương thức quản lý khác nhau đối với chủ thể nghệ thuật từ góc độ lý
luận và thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian
Nghiên cứu các phương thức quản lý, vai trò của nhà quản lý nghệ thuật sân
khấu Cải lương ở miền Tây Nam Bộ như: Vĩnh Long, Tiền Giang, Bạc Liêu, v.v…
và Sài Gòn, nay là Tp. Hồ Chí Minh.
Về thời gian
Nghiên cứu phương thức quản lý, vai trò của nhà quản lý nghệ thuật sân
khấu Cải lương ở Sài Gòn (Tp. Hồ Chí Minh) và miền Tây Nam Bộ từ lúc hình
thành, phát triển cho đến hiện nay (năm 2013).
Về lĩnh vực khảo sát
Nghiên cứu hai lĩnh vực gồm: nội dung, hình thức nghệ thuật của sân khấu
Cải lương Nam Bộ và công tác quản lý (lực lượng sáng tạo, vốn và cơ sở vật chất,
kinh doanh biểu diễn).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp tiếp cận liên ngành: nghệ thuật học, văn hóa học, sử học, v.v...
Phương pháp điền dã: phỏng vấn, trao đổi ý kiến, thu thập thông tin về đối
tượng nghiên cứu. Chúng tôi đã phỏng vấn một số nhà quản lý các ban ngành chức
năng thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, một số nhà quản lý các đơn vị nghệ
thuật sân khấu Cải lương Nam Bộ, các đạo diễn, diễn viên; tiếp cận khán giả của
sân khấu Cải lương ở Tp. Hồ Chí Minh và một số tỉnh miền Tây Nam Bộ để tham
khảo những ý kiến của họ về lĩnh vực nghệ thuật này.
6. Những đóng góp của luận án
6.1. Đóng góp về mặt lý luận
Về phương diện lý luận, qua việc phân tích những yếu tố mang tính lịch sử
tác động đến sự tồn tại và phát triển của nghệ thuật sân khấu Cải lương Nam Bộ,
- 12 -
luận án tổng hợp và góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận về phương thức quản lý,
góp phần bổ sung và đổi mới phương thức về quản lý các nhà hát, các đơn vị nghệ
thuật Cải lương Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Về phương diện thực tiễn, luận án phản ánh thực trạng của nghệ thuật sân
khấu Cải lương Nam Bộ hiện nay và đưa ra một số giải pháp khả thi để nâng cao
chất lượng và hiệu quả tổ chức, quản lý hoạt động nghệ thuật sân khấu Cải lương
Nam Bộ hiện nay và trong tương lai.
Kết quả của luận án sẽ là tài liệu để các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị
Cải lương công lập và ngoài công lập tham khảo về mặt phương thức quản lý trong
giai đoạn xã hội hóa hoạt động sân khấu theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu (08 trang), Kết luận (03 trang) và Tài liệu tham khảo
(09 trang), nội dung Luận án được chia làm ba chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và lịch sử về nghệ thuật sân khấu Cải
lương Nam Bộ (37 trang).
Chương 2: Tác động của những phương thức quản lý trong diễn trình phát
triển nghệ thuật sân khấu Cải lương Nam Bộ (63 trang).
Chương 3: Những giải pháp đổi mới phương thức quản lý nghệ thuật sân
khấu Cải lương Nam Bộ trong thời kỳ mới (33 trang).
- 13 -
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ VỀ NGHỆ THUẬT
SÂN KHẤU CẢI LƢƠNG NAM BỘ
1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ liên quan
1.1.1. Nghệ thuật sân khấu Cải lương Nam Bộ
1.1.1.1. Nghệ thuật sân khấu Cải lương
Theo ngữ nghĩa Hán - Việt: cải là cải cách, cách tân, cải tiến, v.v…, lương là
đẹp: Ý nghĩa chung là làm đẹp, cải tiến mới và làm đẹp hơn. Theo Đại từ điển tiếng
Việt: Cải lương là loại hình ca kịch Nam Bộ, bắt nguồn từ nhạc Tài tử dân ca Nam
Bộ. “Cải lương” cũng là từ nói gọn và gọi chung [108, tr.240].
Trước những năm 1920, người ta gọi là nghệ thuật Tân thời - Kim thời. Bảng
hiệu Cải lương mới xuất hiện khoảng năm 1920, từ bảng hiệu Gánh Cải lương Tân
Thinh của bầu Trương Văn Thông, với hai câu liễn:
Cải cách hát ca theo tiến bộ
Lương truyền tuồng tích sánh văn minh.
nên được gọi là Cải lương. Còn có cách giải thích khác, đó là:
Cải tục duy tân
Lương tri tâm điền.
nghĩa là những điều tốt đẹp ghi vào trong tâm.
Nghệ thuật sân khấu Cải lương là một hình thức sân khấu kịch hát dân tộc.
Hình thức này, tích hợp nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau cấu thành, như: Văn
thơ, nghệ thuật sân khấu (gồm đạo diễn, diễn viên), âm nhạc, mỹ thuật, múa, và
những yếu tố khác: âm thanh, tiếng động, ánh sáng, v.v…
1.1.1.2. Nghệ thuật sân khấu Cải lương Nam Bộ
Nghệ thuật sân khấu Cải lương Nam Bộ (bao gồm các tỉnh miền Đông và
miền Tây Nam Bộ) là một bộ phận của nghệ thuật sân khấu Cải lương Việt Nam. Ở
luận án này, trong khi nghiên cứu quá trình phát triển nghệ thuật sân khấu Cải lương
Nam Bộ qua sự tác động của các phương thức quản lý, chúng tôi đặc biệt chú trọng
- 14 -
đến hoạt động sân khấu Cải lương ở Sài Gòn trước đây - Tp. Hồ Chí Minh ngày nay
và các tỉnh miền Tây Nam Bộ như: Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bạc Liêu, v.v…
1.1.2. Khái niệm phương thức quản lý
1.1.2.1. Phương thức quản lý
Từ điển Tiếng Việt đã ghi: Phương thức là cách thức và phương pháp [60,
tr.821].
* Khái niệm quản lý
Do tính chất xã hội của lao động của con người, quản lý là một biện pháp cần
thiết đối với nhiều lĩnh vực, nó có tính quyết định cho sự thành bại của chủ thể. Vì
vậy cần có sự quản lý để duy trì tính tổ chức, sự phân công lao động, các mối quan
hệ giữa những người trong một tổ chức xã hội và giữa các tổ chức xã hội trong quá
trình sản xuất vật chất, trong quá trình xã hội, nhằm đạt mục tiêu nhất định. Quản lý
là một khoa học, trong đó quản lý:
“Dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật phát triển của các đối tượng
khác nhau, quy luật tự nhiên hay xã hội. Đồng thời quản lý còn là một
nghệ thuật, đòi hỏi nhiều kiến thức xã hội, tự nhiên hay kỹ thuật.
Những hình thức quản lý có ý thức luôn gắn liền với hoạt động có
mục tiêu, có kế hoạch của những tập thể lớn hay nhỏ của con người và
được thực hiện qua những thể chế xã hội đặc biệt. Mục đích, nội dung
cơ chế và phương pháp quản lý xã hội tùy thuộc vào chế độ chính trị -
xã hội [65, tr.580].
Trong quá trình tiến bộ xã hội, những hình thức quản lý có ý thức đã có
những biến đổi sâu sắc - từ việc quản lý xã hội nguyên thủy bằng những truyền
thống và tập quán, đến việc quản lý một cách tự giác và khoa học sự phát triển của
xã hội tiến dần lên trình độ phát triển cao.
Quản lý thường được hiểu là chủ trì hay phụ trách một công việc nào đó.
Theo PGS.TS. Bùi Hoài Sơn: “Để tiến hành công việc quản lý, chúng ta phải dựa
vào các phương tiện và chính sách về luật pháp, tài chính, nghiên cứu khoa học,
phát triển nguồn nhân lực v.v… để đạt được mục tiêu quản lý đề ra” [71, tr.10].
- 15 -
Bản thân khái niệm quản lý có tính đa nghĩa nên có sự khác biệt giữa nghĩa
rộng và nghĩa hẹp. Hơn nữa, do sự khác biệt về thời đại, xã hội, chế độ, nghề nghiệp
nên quản lý cũng có nhiều cách giải thích, lý giải khác nhau. Theo chúng tôi,
phương thức quản lý là cách thức và phương pháp tổ chức và điều khiển các hoạt
động theo những yêu cầu nhất định.
* Quản lý văn hóa
Nhà nước quản lý văn hóa thông qua việc ban hành, tổ chức thực hiện, kiểm
tra và giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn
hóa. Theo UNESCO, chính sách văn hóa là một tổng thể các nguyên tắc hoạt động,
các cách thức thực hành, các phương pháp quản lý hành chính và giải pháp về ngân
sách của nhà nước dùng làm cơ sở cho các hoạt động văn hóa.
TS. Nguyễn Văn Tình trong cuốn Chính sách văn hóa trên thế giới và việc
hoàn thiện chính sách văn hóa ở Việt Nam cho rằng: “Trong lĩnh vực hoạch định
chính sách quốc gia, người ta đều coi chính sách nghệ thuật cũng là chính sách văn
hóa và khái niệm “chính sách văn hóa” được thế giới sử dụng thông dụng và chính
thức hơn” [88, tr.30].
Theo Từ điển bách khoa văn hóa học:
Tác động chỉ huy và quản lý đối với hoạt động kinh tế trong văn hóa,
trong điều kiện nhà nước là chủ thể. Lịch sử nhân loại chứng minh rằng
việc tham gia này (nghĩa là về mặt kinh tế) là cần thiết, nhưng vấn đề là
ở chỗ mức độ và hình thức tham gia như thế nào để đảm bảo mối cân
bằng giữa việc lãnh đạo của nhà nước với việc tự quản của đơn vị văn
hóa. Hình thức và mức độ tùy thuộc vào điều kiện thực tế của nền văn
hóa trong một xã hội và một hoàn cảnh lịch sử cụ thể [01, tr.374].
Trong điều kiện thực tế của nền văn hóa Việt Nam, từ những năm cuối thế
kỷ XIX đến nay, có rất nhiều biến động. Với những tác động to lớn của văn hóa đối
với kinh tế, theo chúng tôi, vai trò tác động chỉ huy và quản lý đối với hoạt động
kinh tế trong văn hóa là rất quan trọng.