Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

nâng cao hiệu quả việc thực hiện các vấn đề pháp quy trong loại hợp đồng này
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
A . LỜI MỞ ĐẦU
Thực tập là một giai đoạn quan trọng trong quá trình đào tạo sinh viên. Nó
giúp sinh viên tiếp cận với thực tiễn, học tập, đối chiếu và so sánh giữa thực tiễn và
lý thuyết. Đối với sinh viên chuyên ngành luật kinh tế, giai đoạn thực tập giúp bổ
sung các kiến thức mà trên giảng đường không thể khái quát hết, thấy được các vấn
đề pháp lý trong thực tiễn từ đó thấy được các ưu điểm và hạn chế của các văn bản
pháp quy trong lĩnh vực này.
Trong quá trình thực tập tại công ty Cổ phần thương mại và vận tải quốc tế
Châu Giang tôi đã được tiếp cận với thực tiễn nhiều vấn đề pháp lý như các vấn đề
về lao động, thủ tục thành lập doanh nghiệp, thuế, hợp đồng ….Trong đó vấn đề mà
tôi đặc biệt quan tâm đó là về hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu. Do đặc điểm ngành
nghề kinh doanh của công ty lên số lượng hợp đồng thương mại chiếm một phần
lớn trong số lượng hợp đồng mà công ty ký kết và vấn đề pháp lý về hợp đồng cũng
chiếm một phần lớn trong các vấn đề pháp lý của công ty. Tuy số lượng hợp đồng
ủy thác xuất nhập khẩu tại cơ sở không chiếm một số lượng lớn nhưng xét thấy đây
là một vấn đề tuy không phải là mới nhưng trong thực tiễn các văn bản pháp quy
quy định về các vấn đề này không nhiều trong khi đó các doanh nghiệp kinh doanh
trong lĩnh vực này ngày càng ra tăng và nhu cầu xuất nhập khẩu của nền kinh tế
ngày càng mở rộng, tính chuyên môn hóa ngày càng sâu do vậy tôi quyết định chọn
đề tài: Hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu các vấn đề pháp quy và thực tiễn tại công
ty Cổ phần thương mại và vận tải quốc tế Châu Giang. Đề án này tập trung vào các
vấn đề chính sau:
. Các chế định pháp quy về vấn đề xuất nhập khẩu ủy thác
. Tình hình thực thi các vấn đề pháp quy trong hợp đồng ủy thác xuất
nhập khẩu
. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định của pháp luật
trong loại hợp đồng này tại cơ sở
Và đề tài này được kết cấu gồm ba phần chính
1
Phần I: Cơ sở lý luận về hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu
Phần II: Hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu tại cơ sở
Phần III: Những đánh giá và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc thực
hiện các vấn đề pháp quy trong loại hợp đồng này
Trong phần một trình bày về cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của hợp đồng xuất
nhập khẩu ủy thác. Tuy nhiên đề tài này chỉ đề cập đến các hợp đồng kinh tế.
Trong phần hai của đề tài tập trung vào nêu khái quát tình hình thực hiện hợp
đồng xuất nhập khẩu ủy thác tại cơ sở, phân tích những thuận lợi và vướng mắc
trong quá trình thực hiện loại hợp đồng này. Phần ba của đề tài nêu lên một số giải
pháp và kiến nghị nhằm nâng tính thực thi các vấn đề pháp quy trong loại hợp đồng
này và nâng cao tính hiệu quả của nghiệp vụ xuất nhập khẩu ủy thác tại cơ sở
Qua đây về phía nhà trường tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới thầy Nguyễn
Hợp Toàn –Trưởng khoa Luật kinh tế, thầy Nguyễn Vũ Hoàng – Giảng viên khoa
Luật kinh tế trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội. Về phía cơ sở thực tập tôi xin
chân thành gửi lời cảm ơn tới Ông Nguyễn Châu Thành – Giám đốc công ty, Ông
Vũ Đình Lân – Phó giám đốc công ty cùng toàn thể cán bộ công nhân viên trong
công ty Cổ phần thương mại và vận tải quốc tế Châu Giang đã tận tình giúp đỡ tôi
hoàn thành giai đoạn thực tập này.
2
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU UỶ THÁC
I. Cơ sở lý luận
1.Vai trò của xuất nhập khẩu trong nền kinh tế quốc dân
Xuất nhập khẩu là một khâu không thể thiếu đối với một nền kinh tế quốc dân
bởi những yếu tố:
Sự phát triển không đồng đều của các quốc gia trên các lĩnh vực công nghệ,
nhân lực …do vậy xuất nhập khẩu được coi là giải pháp tốt nhất cho bài toán di tắt
đón đầu rút ngắn thời gian theo kịp các quốc gia khác. Nước ta là một thí dụ điển
hình, nếu bỏ thời gian và chi phí để nghiên cứu có được công nghệ sản xuất máy
bay thì cần một khoảng thời gian rất dài và chi phí lớn trong khi đó ta có thể nhập
khẩu công nghệ hoặc máy bay nguyên chiếc với giá cả phải chăng. Do vậy đây
được coi là lời giải cho các bài toán mà khi sản phẩm sản xuất trong nước giá thành
còn cao.
Mỗi quốc gia đều có đặc điểm về tự nhiên, dân cư khác nhau, có các thế mạnh
và điểm yếu riêng, nếu phát triển tất cả các lĩnh vực ngành nghề bao gồm cả các
ngành mà chi phí sản xuất sản phẩm còn cao thì hiệu quả kinh tế không cao trong
khi tập trung vào các ngành mà quốc gia mình có thế mạnh để giảm giá thành nâng
cao chất lượng sản phẩm cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường và
nhập khẩu các sản phẩm mà nếu sản xuất trong nước giá thành còn cao. Trở lại thí
dụ ở phần trên, nước ta do đặc điểm về tự nhiên và dân cư nên có thế mạnh trong
ngành nông nghiệp, công nghiệp may mặc, thủy hải sản, do đó tập trung vào các
ngành nghề này giúp giảm giá thành nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm cạnh
tranh với hàng hóa cùng loại của các quốc gia khác trên các thị trường xuất khẩu và
nhập về các sản phẩm mà nước ta chưa đủ năng lực sản xuất hoặc sản xuất với giá
thành còn quá cao. Tuy nhiên không phải chỉ có tập trung vào các ngành nghề mà
quốc gia mình có thế mạnh, bên cạnh chiến lược trên ta cũng phải gấp rút đầu tư
vào nghiên cứu chế tạo các sản phẩm mà giá thành sản phẩm trong nước còn cao từ
3
đó mở rộng phạm vi các ngành nghề có thế mạnh. Vậy xuất nhập khẩu còn được coi
là giải pháp tiết kiệm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Sự chuyên môn hóa ngày càng cao, sự phân công và hiệp tác lao động ngày
càng mở rộng và chuyên sâu, có những sản phẩm được hoàn thành sau nhiều công
đoạn và mỗi công đoạn đó được thực hiện ở nhiều quốc gia khác nhau do vậy xuất
nhập đóng vai trò là một khâu trong quá trình hoàn thiện sản phẩm.
2. Tổng quan về tình hình xuất nhập khẩu của nước ta từ năm 1990 tới nay
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa, nhà nước độc quyền việc xuất nhập khẩu,
do không đủ năng động nắm bắt được nhu cầu của nền kinh tế đã dẫn đến tình trạng
tắc nghẽn nền kinh tế cung và cầu mất cân bằng như một số mặt hàng sản xuất ra
không tiêu thụ được do thiếu đối tác, thiếu máy móc, công nghệ phục vụ cho sản
xuất. Ngày nay với xu thế hội nhập kinh tế thế giới đảng và nhà nước ta đã có
những chính sách cụ thể và thiết thực nhằm thúc đẩy và khai thác các lợi thế do hoạt
động xuất nhập khẩu đem lại. Tổng kim ngạch xuất khẩu 10 năm(1990-2000) kim
ngạch xuất nhập khẩu đạt 67,3 tỷ USD vượt mục tiêu nêu trong chiến lược 10 năm
(37 - 45 tỷ USD), bình quân hàng năm tăng 18,2%, trong đó, thời kỳ 1991-1995
là17,2 tỷ USD, tăng 17,8%, thời kỳ 1996-2000 là là 50,1 tỷ USD, tăng 18,6%.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2000 gấp khoảng 5,3 lần so với năm 1990, cao hơn
mục tiêu nêu trong Chiến lược là 5 lần, nhưng xuất khẩu đầu người chỉ tăng từ 36,3
USD năm 1990 lên 166 USD năm 2000, thấp hơn mục tiêu nêu trong Nghị quyết
Đại hội VIII là 200 USD.
Thị trường được củng cố và mở rộng. Cuối thập kỷ 1980 và đầu thập kỷ 1990,
ngoại thương Việt Nam chỉ có những bạn hàng chủ yếu là các nước thuộc Liên Xô
và Đông Âu cũ với những mặt hàng xuất khẩu manh múi, đơn điệu, chủ yếu là nông
sản nguyên liệu và hàng thủ công mỹ nghệ, hàng gia công bán thành phẩm. Tuy
nhiên khi thị trường khu vực này bị đột ngột thu hẹp, chúng ta đã nhanh chóng tìm
kiếm, tiếp cận và mở rộng thị trường ở các khu vực khác để tránh sự hẫng hụt, tháo
gỡ khó khăn.
Nhờ có chính sách đổi mới đa phương hoá quan hệ kinh tế của Đảng và Nhà
nước, đến cuối năm 1997 và đầu năm 1998 hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam đã có
mặt trên thị trường của trên 150 nước ở khắp các châu lục với những chủng loại mặt
4
hàng đa dạng và phong phú hơn. Có một số mặt hàng đã có vị trí trên thị trường như
dầu thô, gạo, hàng thuỷ hải sản chế biến, cà phê, cao su, quần áo may sẵn...
Thị trường xuất - nhập khẩu của nước ta được mở rộng về phạm vi và dung
lượng. Hiện nay, khu vực Châu Á vẫn đang là thị trường xuất và nhập khẩu lớn nhất
của nước ta, đã chiếm gần 63% tổng kim ngạch xuất khẩu và gần 74% tổng kim
ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Nhật Bản, Trung Quốc, ASEAN là những đối tác
chiếm thị phần buôn bán lớn nhất trong số các đối tác châu á.
Riêng các nước ASEAN chiếm 24,3% tổng kim ngạch xuất khẩu và 32,4%
kim ngạch nhập khẩu của nước ta trong năm 1998. Triển vọng trong những năm
cuối của thập kỷ này các nước Châu Á vẫn là những bạn hàng lớn nhất trong quan
hệ buôn bán với nước ta.
Hàng hoá của Việt Nam đã tiếp cận vào thị trường Châu Âu, Châu Mỹ, đặc
biệt là thị trường các nước EU, Hoa Kỳ và Canađa.
Thị trường các nước Trung Đông cũng đã và đang được khai thác triệt để,
bước đầu là các mặt hàng trả nợ như gạo, chè, cà phê, cá hộp, quần áo may sẵn và
một số mặt hàng tiêu dùng khác..., đến nay một số mặt hàng của Việt Nam như cà
phê, gạo, chè đã có sức cạnh tranh trên thị trường này.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng đã tìm kiếm các giải pháp khôi phục lại thị trường
các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu sau một thời gian gián đoạn, sẽ mở ra
những khả năng mới trong quan hệ kinh tế và trao đổi hàng hoá khu vực này.
Dung lượng hàng hoá tham gia thị trường quốc tế của Việt Nam ngày càng
phát triển về cả khối lượng và chất lượng. Tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu
trong những năm 1991 - 1997 tăng bình quân 25%. Tuy nhiên, năm 1998 do bị ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu á, kim ngạch xuất khẩu năm 1998 đã
chững lại, chỉ tăng khoảng1,9%. Năm 1999, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất
khẩu đã tăng trở lại 23,1%. Kế hoạch năm 2000, dự kiến có thể tăng trên 11%.
Cơ cấu hàng xuất khẩu đã thay đổi theo hướng phát huy lợi thế so sánh trong
mối quan hệ kinh tế quốc tế. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông
lâm thuỷ sản tuy vẫn ở vị trí đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu nhưng cũng có xu
hướng giảm dần, từ bình quân là 48,0% thời kỳ 1991 - 1995 giảm còn 38,5% trong
thời kỳ 1996 - 2000, trong khi tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ
5