Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – chi nhánh Hà Thành
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
LUẬN VĂN:
Mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam –
chi nhánh Hà Thành
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2008 là năm thứ 2 Việt Nam tham gia tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
và cũng là năm chứng kiến sự biến động mạnh mẽ trên thị trường tài chính tiền tệ trong
nước và quốc tế. Sự biến động này đã tác động mạnh đến đời sống nhân dân: lạm phát
tăng cao, giá dầu, giá vàng tăng kỷ lục,… lãi suất cũng liên tục biến động mạnh trong
năm. Không chỉ ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, hệ thống Ngân hàng cũng chịu rất
nhiều tác động xấu, cụ thể nhất là khả năng thanh khoản của các Ngân hàng, tạo ra sức ép
tăng lãi suất huy động. Lãi suất cơ bản tăng lên đến 14%, lãi suất huy động của các ngân
hàng có lúc lên đến mức cao kỷ lục 21%, nhưng lại giảm mạnh vào các tháng cuối năm,
tháng 12 lãi suất cơ bản chỉ còn 8,5%.
Năm 2008 cũng là năm cạnh tranh trên thị trường dịch vụ ngân hàng diễn ra quyết
liệt hơn với nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ mới được các ngân hàng triển khai cung
cấp tới khách hàng. Các ngân hàng có vốn Nhà nước tập trung phát triển theo hướng
thành lập các tập đoàn tài chính, trong khi các ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô
trung bình và nhỏ tập trung định hướng phát triển ngân hàng bán lẻ với các đối tượng
khách hàng chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ và khách hàng cá nhân. Vì vậy có thể
nhận thấy trên thị trường dịch vụ ngân hàng năm qua sôi động hơn với việc các ngân
hàng đẩy mạnh các hoạt động ngân hàng bán lẻ. Khách hàng có thêm nhiều lựa chọn sử
dụng những tiện ích ngân hàng để thanh toán cho những chi phí trong cuộc sống hàng
ngày như tiền điện, nước, điện thoại, internet, mua sắm tại một số siêu thị…
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Thành cũng không nằm
ngoài xu hướng phát triển chung của thị trường. Ngay từ những ngày đầu thành lập chi
nhánh cũng đã xác định cạnh tranh phát triển cho vay tiêu dùng sẽ là hướng đi mới giúp
chi nhánh phân tán rủi ro và nâng cao khả năng hội nhập. Tuy đã bước đầu hình thành và
tổ chức hoạt động theo thông lệ của các NHTM hiện đại trên thế giới, theo đó các hoạt
động bán lẻ được quan tâm chỉ đạo và kiểm soát một cách bài bản nhưng trong bối cảnh
nền kinh tế đương đầu với những khó khăn thách thức, hoạt động tín dụng tiêu dùng của
BIDV gặp không ít khó khăn.
Xuất phát từ lý do đó, em chọn đề tài “ Mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam – chi nhánh Hà Thành” làm đề tài cho chuyên đề tốt
nghiệp của mình.
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, chuyên đề gồm có ba Chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về mở rộng cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương
mại.
Chương 2: Thực trạng mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam chi nhánh Hà Thành.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Thành.
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MỞ RỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG -
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Tổng quan về cho vay tiêu dùng (CVTD) của Ngân hàng thương mại
(NHTM).
1.1.1. Khái niệm.
Cho vay là một mặt của hoạt động tín dụng ngân hàng, thông qua hoạt động cho
vay ngân hàng thực hiện điều hoà vốn trong nền kinh tế thông qua hình thức phân phối
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi huy động được từ trong xã hội để đáp ứng nhu cầu về phục
vụ sản xuất kinh doanh và đời sống. Hoạt động cho vay của ngân hàng bắt nguồn từ nhu
cầu của nền kinh tế thị trường, khi mà một số cá nhân, tổ chức cần vốn để thực hiện hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình, trong khi đó một số cá nhân tổ chức khác lại tạm
thời dư thừa một lượng vốn nhất định trong một thời gian cụ thể. Chính vì vậy, ngân
hàng với vai trò là người trung gian đã đứng ra huy động vốn từ những cá nhân, doanh
nghiệp có nguồn vốn nhàn rỗi rồi thực hiện nghiệp vụ cho vay đối với những cá nhân,
doanh nghiệp khác đang cần vốn và hưởng lợi từ khoản chênh lệch lãi suất.
Cùng với thời gian, hoạt động tín dụng của các ngân hàng đã thay đổi đáng kể, nếu
như trước đây các NHTM chỉ giới hạn phạm vi hoạt động của mình chủ yếu cho Nhà
nước và các doanh nghiệp lớn vay thì giờ đây hoạt động cho vay tiêu dùng ngày càng
được mở rộng. Xuất phát từ mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng, thông qua mối
quan hệ này ngân hàng thấy được từ cả phía người sản xuất lẫn người tiêu dùng: các nhà
sản xuất cần có sự hỗ trợ để tiêu thụ hàng hóa, còn người tiêu dùng thì cần nguồn tài trợ
cho những nhu cầu tài chính của mình trong trường hợp mức thu nhập của họ không đủ
để có một cuộc sống đầy đủ ở thời điểm hiện tại. Từ đó, nghiệp vụ cho vay tiêu dùng
chính thức được ra đời và ngày càng phát triển theo xu thế chung của nền kinh tế thế giới.
Vậy CVTD là gì?
Cho vay tiêu dùng được hiểu là hình thức tài trợ cho mục đích chi tiêu của cá
nhân, hộ gia đình. Các khoản cho vay tiêu dùng là nguồn tài trợ chính, quan trọng giúp
người tiêu dùng có thể trang trải các nhu cầu của cuộc sống như nhà cửa, phương tiện đi
lại, tiện nghi sinh hoạt, học tập, y tế, du lịch… trước khi họ có đủ khả năng về tài chính
để hưởng thụ.
Định nghĩa này nhằm phân biệt với các sản phẩm cho vay khác của ngân hàng
như: cho vay các doanh nghiệp vừa và nhở, cho vay đầu tư… Có thể thấy do đối tượng
CVTD hướng đến là tất cả người dân có thu nhập trong xã hội nên phạm vi rất rộng và thị
trường còn rất tiềm năng, hứa hẹn đem lại nhiều khoản lợi nhuận cao cho ngân hàng.
Chính vì vậy, hoạt động CVTD ngày càng được các NHTM chú trọng và phát triển.
1.1.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng.
CVTD của ngân hàng nhằm tài trợ cho các nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và hộ
gia đình. Khác với cho vay kinh doanh, ở đây người vay sử dụng tiền vay vào mục đích
không sinh lời, nguồn trả nợ độc lập so với sử dụng tiền vay, vì vậy CVTD có những đặc
điểm như sau:
1.1.2.1. Các sản phẩm CVTD rất phong phú vì khách hàng vay vốn rất đa dạng và mục
đích sử dụng vốn linh hoạt.
Như đã nói ở trên, do đối tượng của CVTD hướng đến là tất cả người dân có thu
nhập trong xã hội, mà tùy theo hoàn cảnh, thu nhập, và mong muốn của mỗi người mà
mục đích vay vốn của họ là hoàn toàn khác nhau. Những khách hàng là cá nhân, có thu
nhập cao trong xã hội thì nhu cầu tiêu dùng của họ khác hoàn toàn với những cá nhân có
thu nhập thấp, trung bình. Hoặc tùy vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi người, có người có
những nhu cầu về nhà ở, về những vật dụng xa xỉ, về những phương tiện đi lại có giá trị
cao như ô tô, xe máy… nhưng cũng có những người vay với mục đích đi du học hoặc để
trang trải các nhu cầu chi tiêu cho y tế… Chính vì vậy sản phẩm CVTD cũng phải đa
dạng và phong phú, nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu tiêu dùng của mọi người dân, mọi tầng
lớp trong xã hội.
1.1.2.2. Giá trị mỗi món vay nhỏ nhưng khối lượng các món vay lớn.
Tùy thuộc vào mục đích sử dụng và thu nhập hàng tháng của khách hàng mà giá
trị các khoản vay thường khác nhau. Tuy nhiên có một điểm chung là giá trị các khoản
vay này thường rất nhỏ so với các khoản vay cho hoạt động sản xuất kinh doanh do đây
là khoản vay phục vụ cho mục đích tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình, thêm vào đó, giá
trị của hàng hóa tiêu dùng thường không quá lớn hoặc khách hàng vay vốn đã có sự tích
lũy từ trước đối với những nhu cầu của mình…
Trong điều kiện hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu tiêu dùng của
người dân cũng theo đó đi lên, người tiêu dùng sẽ vay nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu của
bản thân, gia đình do không phải ai cũng có khả năng chi trả cho nhưng nhu cầu tiêu
dùng của mình bằng nguồn thu nhập trong thời điểm hiện tại. Điều này dẫn đến số lượng
khách hàng có nhu cầu vay vốn là rất đông khiến tổng quy mô CVTD trở nên rất lớn.
1.1.2.3. CVTD thường có rủi ro cao hơn các khoản cho vay trong lĩnh vực hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Do nguồn trả nợ của CVTD độc lập với khoản vay, chủ yếu là từ thu nhập của
người đi vay, mà nguồn thu nhập này có thể thay đổi nhanh chóng tùy theo tình trạng
công việc, tình hình kinh tế chung hay tình hình sức khỏe của họ.. Thêm vào đó, việc
thẩm định và quyết định cho vay đối với một khoản CVTD cũng thường gặp khó khăn do
vấn đề thông tin không đầy đủ hoặc thiếu tính chính xác. Các thông tin cá nhân đưa ra
thường không rõ ràng và minh bạch như các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, việc
thẩm định xác minh cũng gặp nhiều khó khăn… Ngày nay, để hạn chế bớt rủi ro, trong
hầu hết các khoản CVTD ngân hàng đều đòi hỏi phải có đảm bảo bằng tài sản.
1.1.2.4. Các khoản CVTD thường có lãi suất cao.
Điều này xuất phát từ việc các khoản CVTD có chi phí và rủi ro cao nhất trong các
loại cho vay của ngân hàng. CVTD thường nhạy cảm theo chu kỳ, khi nền kinh tế phát
triển, người dân có thu nhập cao, nhu cầu về tiêu dùng của họ cũng tăng lên do họ thấy
lạc quan về tương lai, ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái đại bộ phận dân cư đều
có xu hướng thắt chặt tiêu dùng, tiết kiệm nhiều hơn chi tiêu. Mặt khác, người tiêu dùng