Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Luận văn Bảo hiểm xã hội ở tỉnh Ninh Bình hiện nay
PREMIUM
Số trang
121
Kích thước
803.7 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1696

Luận văn Bảo hiểm xã hội ở tỉnh Ninh Bình hiện nay

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

Luận văn

Bảo hiểm xã hội ở tỉnh Ninh

Bình hiện nay

2

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bảo hiểm xã hội là một chính sách trong những nội dung của hệ thống tài

chính Nhà nước nhằm góp phần thực hiện ổn định kinh tế - xã hội, không

ngừng nâng cao đời sống người lao động. Cùng với các nội dung nhiệm vụ và

chính sách kinh tế Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm đến công tác bảo

hiểm xã hội (BHXH).

Bước vào thời kỳ đổi mới, hoạt động bảo hiểm nói chung, bảo hiểm xã

hội nói riêng đã có bước phát triển khá, tăng nguồn thu quỹ BHXH hàng năm

để sử dụng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.

Đồng thời BHXH góp phần đảm bảo chi cho các đối tượng được hưởng

chính sách, không ngừng nâng cao đời sống, ổn định kinh tế - xã hội.

Những năm qua cùng với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN, các thành phần kinh tế trong nước phát triển cả về số lượng và

chất lượng, công tác BHXH càng có cơ hội tạo địa bàn hoạt động, tăng nguồn

thu, mở rộng đối tượng thu không những trong khu vực kinh tế Nhà nước mà

lan tỏa sang các thành phần kinh tế khác. Nhận thức của nhân dân về bảo

hiểm và BHXH ngày càng cao, ý thức chấp hành ngày càng tốt, hoạt động

BHXH ngày càng phát triển.

Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến chính sách BHXH đối với

người lao động thuộc các thành phần kinh tế. Bước vào thời kỳ đổi mới, để

phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,

Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật lao động và Điều lệ BHXH nhằm thống nhất

thực hiện BHXH trong phạm vi toàn quốc đối với mọi người lao động. Từ

tháng 7 năm 1995, quỹ BHXH được hình thành từ nguồn đóng góp của người

lao động, người sử dụng lao động và độc lập với ngân sách nhà nước. Hướng

phát triển sẽ trở thành nguồn tài chính chủ yếu bảo đảm cho các nhu cầu hoạt

3

động và chi trả cho các đối tượng của BHXH trong tương lai. Khác với các

loại hình bảo hiểm khác, quỹ BHXH được Nhà nước bảo trợ để bảo đảm ổn

định và tăng trưởng quỹ.

Ninh Bình là một tỉnh được tái lập từ năm 1992, công tác BHXH được

đặc biệt quan tâm. Từ đó đến nay hoạt động thu - chi, đảm bảo chính sách cho

đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng trưởng khá. Tuy nhiên, so với yêu

cầu đổi mới, BHXH chưa khai thác hết tiềm năng, thế mạnh. Đặc biệt từ khi

có quyết định 20/TTg/2002 của Thủ tướng chính phủ về việc sát nhập Bảo

hiểm Y tế vào BHXH, mặc dù đối tượng phát triển ngày một tăng nhưng

nhiều vấn đề phát sinh bên cạnh đó gây bức xúc trong đời sống xã hội.

Để có đánh giá khách quan, khoa học về BHXH nói chung và BHXH ở

tỉnh Ninh Bình, vấn đề “Bảo hiểm xó hội ở tỉnh Ninh Bình hiện nay” được

chọn làm đề tài nghiên cứu của Luận văn. Nhằm góp phần sáng tỏ hơn về mặt

lý luận, đánh giá khách quan khoa học về bảo hiểm Ninh Bình hiện nay. Từ

đó đề xuất các giải pháp có hiệu quả đối với loại hình này.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn

ở nước ta trong những năm gần đây đã có nhiều đề tài, công trình nghiên

cứu về BHXH nhằm phân tích những ưu điểm và hạn chế của chính sách, chế

độ và đề ra những giải pháp hoàn thiện chính sách BHXH đã được nhiều cơ

quan, các bộ ngành BHXH thực hiện, cụ thể:

- Đỗ Văn Sinh: “Hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam”, Luận án

tiến sỹ kinh tế, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2005. Luận án

đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý quỹ Bảo hiểm Việt Nam.

- Đặng Ngọc Liên: “ Quản lý thu BHXH đối với khu vực kinh tế tư nhân tại

Hà Nội”. Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2004. Luận

văn nghiên cứu BHXH dưới góc độ quản lý nguồn thu trên địa bàn Hà Nội, thời

gian 1997 - 2004 và các giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý thu bảo hiểm.

4

- Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến: “góp phần đổi mới và hoàn thiện

chính sách bảo hiểm xã hội ở nước ta hiện nay”, sách tham khảo, NXB

Chính trị Quốc gia, năm 1996. Tác giả đề xuất những giải pháp góp phần đổi

mới và hoàn thiện chính sách bảo hiểm ở nước ta hiện nay.

- Bảo hiểm xã hội Việt Nam: “Lộ trình mở rộng đối tượng tham gia

BHXH theo nghị định 01/2003/NĐ - CP”. Các tác giả đã đề xuất lộ trình mở

rộng đối tượng tham gia BHXH.

- Phạm Duy Đỉnh: Nghiên cứu “Dịch vụ BHXH Hà Nội”. Luận văn thạc

sỹ kinh tế, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.

Luận văn nêu rõ dịch vụ BHXH là một loại hình dịch vụ đặc thù. Những

thành công phát triển dịch vụ BHXH của Hà Nội và đề xuất giải pháp mở

rộng dịch vụ trong giai đoạn đến 2010.

- Trần Quang Lâm: “Bảo hiểm Y tế trong nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa”. Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học Viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, năm 2006. Luận văn nêu BHXH Việt Nam, chương trình

phát triển ngành BHXH Việt Nam đến 2010. Chương trình đề cập mục tiêu,

quy hoạch và phương hướng phát triển ngành BHXH Việt Nam trên cơ sở

phân tích dự báo xu hướng phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

và gia nhập WTO.

Ngoài ra còn nhiều bài báo, tạp chí chuyên ngành nghiên cứu đánh giá

những vấn đề BHXH đang đặt ra như quản lý, mở rộng đối tượng tham gia

BHXH. Đề xuất các giải pháp chi trả bảo hiểm đúng đối tượng, thời gian.

Cũng như biện pháp hành chính, chế tài đối với những đối tượng trốn tránh

trách nhiệm BHXH. Tuy nhiên, vấn đề BHXH ở tỉnh Ninh Bình hiện nay

chưa có đề tài trùng lắp.

5

Với đề tài luận văn này, mong muốn từ thực tiễn việc thực hiện công tác

BHXH trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong những năm vừa qua. Trên cơ sở đó

đưa ra những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn nữa công tác BHXH đối với

người lao động trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

* Mục đích nghiên cứu:

- Hệ thống và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận về BHXH trong nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Phân tích thực trạng thực hiện chính sách BHXH trong thời gian qua.

- Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển BHXH ở Ninh Bình giai đoạn

hiện nay đến 2015

* Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về BHXH, các chế độ

chính sách BHXH đang thực hiện ở nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

- Phân tích thực trạng của BHXH trên địa bàn tỉnh Ninh Bình chỉ rõ các

thành tựu, những tồn tại và nguyên nhân.

- Đề xuất các giải pháp thiết thực, có khả thi nâng cao hiệu quả kinh tế

xã hội của BHXH tỉnh Ninh Bình.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu BHXH ở Ninh Bình thể hiện trong việc thực hiện

các quy định của pháp luật về BHXH trên địa bàn các mặt công tác chủ yếu:

- Thu BHXH.

- Chi trả các chế độ BHXH.

- Công tác giải quyết chế độ chính sách.

- Công tác quản lý đối tượng đóng và hưởng BHXH.

- Công tác khai thác mở rộng đối tượng tham gia BHXH.

6

Các nội dung trên được nghiên cứu trong điều kiện phát triển kinh tế

nhiều thành phần và hội nhập kinh tế quốc tế.

Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 2000 đến nay, đặc biệt các số liệu

từ năm 2003 khi có sát nhập bảo hiểm y tế.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của

Đảng ta đã đề ra trong các kỳ Đại hội, nhất là trong thời kỳ đổi mới kể từ Đại

hội VI đến nay về các lĩnh vực kinh tế, tài chính, xã hội.

Phương pháp nghiên cứu: Chủ yếu tổng kết đánh giá thực trạng, kết hợp

lý luận với thực tiễn, thông qua việc phân tích, so sánh các số liệu thống kê để

làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu của luận văn.

6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

- Làm rõ thêm các khái niệm, phạm trù về bản chất, vai trò, vị trí của

BHXH trong hệ thống các chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam. Mối quan hệ

giữa BHXH với các loại hình bảo hiểm khác.

- Khẳng định sự cần thiết, vai trò và giải pháp cụ thể của việc mở rộng đối

tượng tham gia BHXH trong các thành phần kinh tế trước yêu cầu phát triển nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

- Hệ thống các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước

về BHXH theo xu hướng phát triển và hội nhập. Các quan điểm chỉ đạo của

tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh về việc thực hiện BHXH ở Ninh Bình.

- Luận văn là công trình nghiên cứu khá toàn diện về BHXH tại Ninh

Bình sau hơn 10 năm thực hiện chính sách BHXH mới trong cơ chế thị

trường. Đặc biệt từ khi sát nhập bảo hiểm y tế vào BHXH. Từ đó đề xuất các

giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác

BHXH trên địa bàn tỉnh.

7

- Đây là đề tài nghiên cứu việc thực hiện một chính sách xã hội lớn của

Đảng và Nhà nước ở tỉnh Ninh Bình nhìn dưới góc độ BHXH là một bộ phận

của hệ thống tài chính phục vụ người lao động trong các thành phần kinh tế.

Có thể làm tài liệu nghiên cứu và giảng dạy môn Kinh tế chính trị.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương, 7 tiết.

Chương 1

Một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm xã hội

Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa

1.1. Bảo hiểm xã hội và những đặc trưng cơ bản của bảo hiểm xã hội

1.1.1. Bảo hiểm xã hội, vị trí, vai trò của bảo hiểm xã hội

1.1.1.1. Bảo hiểm và bảo hiểm xã hội

Bảo hiểm ra đời, tồn tại và phát triển là do trong thực tế cuộc sống có

nhiều rủi ro xảy ra, gây nên tổn thất về người và của. Mặc dù con người đã

luôn chú ý phòng tránh nhưng những rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra, do

nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể do thiên nhiên gây ra, do môi trường

kinh tế, chính trị, xã hội, do sự biến động và phát triển không ngừng của khoa

học và công nghệ…

Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau

nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả của chúng gây ra. Ví dụ như

phòng ngừa và hạn chế tối đa các rủi ro có thể xảy ra; tự bảo hiểm (tự bỏ ra

nguồn tài chính nhất định để bù đắp những thiệt hại xảy ra với mình trong

cuộc sống cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh); mua bảo hiểm

(đóng một số tiền nhất định cho người quản lý bảo hiểm và người quản lý bảo

8

hiểm sẽ chịu trách nhiệm về rủi ro). Bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ

sở hợp đồng. Bảo hiểm ra đời, tồn tại và phát triển là do đòi hỏi khách quan

của cuộc sống, của hoạt động sản xuất kinh doanh.

BHXH xuất hiện và phát triển cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội

của mỗi quốc gia. Theo tổ chức lao động Quốc tế (ILO), Phổ là quốc gia đầu

tiên trên thế giới ban hành chế độ bảo hiểm ốm đau vào năm 1883, đánh dấu

sự ra đời của BHXH bằng luật định.

Đồng thời tổ chức này cũng khuyến nghị quỹ BHXH được sử dụng để

trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống cho bản

thân và gia đình họ, khi đối tượng tham gia BHXH gặp rủi ro. Theo Công ước

số 102, ngày 04 tháng 6 năm 1952 của Tổ chức lao động quốc tế về quy phạm

tối thiểu về an toàn xã hội, trong đó quy định 9 chế độ về trợ cấp sau đây:

1. Chăm sóc y tế

2. Trợ cấp ốm đau

3. Trợ cấp thất nghiệp

4. Trợ cấp tuổi già

5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp

6. Trợ cấp gia đình

7. Trợ cấp sinh đẻ

8. Trợ cấp khi tàn phế

9. Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng) [14, tr.286].

Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều

kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện

khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được ba

chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ (3), (4), (5), (8), (9).

Mỗi chế độ trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh

9

tế xã hội tài chính, thu nhập, tiền lương v v... Đồng thời tuỳ từng chế độ khi

xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân của quốc

gia, nhu cầu dinh dưỡng; xác suất tử vong...

Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hưởng BHXH phải tính đến một

loạt các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng như từng chế

độ BHXH cụ thể. Chẳng hạn khi xác định điều kiện hưởng trợ cấp BHXH

tuổi già phải dựa vào cơ sở sinh học là tuổi đời và giới tính, của người lao

động là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hưởng trợ cấp hưu trí của mỗi giới, mỗi

vùng, mỗi quốc gia có những khác biệt nhất định. Do đó, có những nước quy

định: nam 65 tuổi và nữ 55 tuổi sẽ được nghỉ hưu. Nhưng cũng có những

nước quy định: nam 65 tuổi và nữ 60 tuổi... Hoặc khi xác định điều kiện

hưởng trợ cấp cho chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phải tính đến

các yếu tố như: điều kiện môi trường lao động, bảo hộ lao động,... Các yếu tố

này thường có quan hệ và tác động qua lại với nhau và ít nhiều ảnh hưởng đến

điều kiện BHXH của từng chế độ và toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.

Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ

thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí BHXH của người lao

động trên cơ sở tương ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời mức trợ cấp còn

phụ thuộc vào khả năng thanh toán chung của từng quỹ tài chính BHXH; mức

sống chung của các tầng lớp dân cư và người lao động. Nhưng về nguyên tắc,

mức trợ cấp này không cao hơn mức tiền lương hoặc tiền công khi người lao

động đang làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với mức

tiền công hay tiền lương. ở các nước kinh tế phát triển do mức lương cao nên

tỷ lệ này thường thấp và ngược lại ở những nước đang phát triển do mức

lương còn thấp nên phải áp dụng một tỷ lệ khá cao. Ví dụ, ở Pháp mức trợ cấp

hưu trí chỉ bằng 50% mức lương cao nhất (với điều kiện đóng BHXH đủ 37,5

năm), ốm đau được hưởng trợ cấp bằng 50% tiền lương, thời gian nghỉ ốm

10

được hưởng trợ cấp không quá 12 tháng. Sinh con được hưởng trợ cấp BHXH

bằng 90% tiền lương trong vòng 16 tuần... Còn ở Philipin, mức trợ cấp hưu trí từ

42% đến 102%, tuỳ thuộc từng nhóm lương khác nhau, ốm đau được hưởng

65%, sinh con được nghỉ 45 ngày và được hưởng trợ cấp bằng 100% tiền

lương...

Tuy vậy, việc các nước quy định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm so

với tiền lương hay tiền công thường dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy, một

số nước đã phải tìm cách khắc phục như: trả ngay 1 lần khi nghỉ hưu, hoặc

suốt đời đóng theo tỷ lệ phần trăm của một mức thu nhập quy định và hưởng

cũng theo tỷ lệ phần trăm của mức quy định.

Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn được

sử dụng cho chi phí quản lý như: Tiền lương cho những người làm việc trong

hệ thống BHXH; khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số khoản

chi khác... Phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lợi. Mục đích đầu tư

quỹ BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ. Quá trình đầu tư quỹ

BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn, có lợi nhuận, có khả năng thanh

toán và đảm bảo lợi ích kinh tế - xã hội.

Từ những quan niệm, các cách hiểu và các cách tiếp cận khác nhau ở

các nước và các thời kỳ nhất định, vì vậy cho đến nay đã có nhiều định nghĩa

khác nhau về bảo hiểm. ở Việt Nam, trong sách “Giáo trình bảo hiểm” của

trường Đại học Kinh tế quốc dân, nhà xuất bản thống kê xuất bản năm 2005,

khái niệm chung nhất về bảo hiểm được định nghĩa như sau: “Bảo hiểm là hoạt

động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người tham gia bảo hiểm

trong trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham

gia nộp 1 khoản phí cho chính anh ta hoặc người thứ ba” [45, tr.13].

Định nghĩa trên mang tính chung nhất của bảo hiểm, nó chỉ rõ việc người

tham gia bảo hiểm chuyển rủi ro cho người bảo hiểm (thường là một tổ chức

11

kinh doanh) thông qua việc nộp một khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi

người tham gia bảo hiểm gặp khó khăn dẫn đến tổn thất, cơ quan bảo hiểm

lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho

người tham gia bảo hiểm đăng ký với tổ chức bảo hiểm.

Hoạt động bảo hiểm thực chất là quá trình phân phối lại thu nhập giữa

những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh khi tai nạn

rủi ro gây tổn thất đối với người tham gia bảo hiểm. Điều này thể hiện trong

việc hình thành quỹ bảo hiểm từ sự đóng phí của người tham gia bảo hiểm.

Khi người tham gia bảo hiểm gặp biến cố theo hợp đồng sẽ được quỹ bảo

hiểm đền bù theo thoả thuận. Như vậy, phần thu nhập của nhiều người sẽ

được chuyển cho một người, điều này thể hiện tính nhân văn. Quá trình phân

phối lại thu nhập trong bảo hiểm được thực hiện.

Sự phân phối trong bảo hiểm là sự phân phối không đều, không bằng

nhau, nghĩa là không phải ai tham gia cũng được phân phối và phân phối một

số tiền bằng nhau. Chỉ có một số ít người tham gia bảo hiểm không may gặp

rủi ro theo hợp đồng bảo hiểm mới nhận được sự phân phối, cũng có nghĩa

phân phối trong bảo hiểm không mang tính bồi hoàn, tức là dù có tham gia

đóng vào quỹ bảo hiểm nhưng không tổn thất thì không được phân phối. Tuy

nhiên, trong các loại hình bảo hiểm, đặc điểm này cũng thể hiện khác nhau.

Cụ thể, với đa số các loại hình BHTM, sự phân phối không mang tính bồi

hoàn thể hiện rõ. Ví dụ: bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm cháy, nổ, bảo hiểm trách

nhiệm dân sự, bảo hiểm tài sản. bảo hiểm sức khoẻ… phần đông người mua

bảo hiểm không được phân phối vì không gặp biến cố, chỉ có một số ít người

được đền bù. Trong một số dịch vụ bảo hiểm nhân thọ đang thực hiện như

bảo hiểm tuổi già, bảo hiểm Đại học, bảo hiểm khi kết hôn (do hãng bảo hiểm

quốc tế Prudential thực hiện) hoặc bảo hiểm hưu trí trong BHXH, tính chất

bồi hoàn trong phân phối thể hiện khá rõ. Trong các hình thức bảo hiểm này,

12

những người tham gia bảo hiểm hầu hết được bảo hiểm khi đạt đến các điều

kiện do hai bên thoả thuận.

Qua sự phân tích trên ta thấy, hoạt động bảo hiểm dựa trên nguyên

tắc "số đông bù số ít" thể hiện trong qúa trình lập quỹ dự trữ bảo hiểm cũng

như quá trình phân phối bồi thường. Nguyên tắc này còn thể hiện tính tương

trợ, tính xã hội và nhân văn sâu sắc của xã hội trước rủi ro của mỗi thành

viên.

Trong hoạt động kinh tế - xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển

được trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại… Để thoả mãn những nhu cầu tối

thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản

phẩm tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và

hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn nhu cầu

sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động

của họ. Nhưng trong thực tế, con người không chỉ lúc nào cũng gặp thuận lợi,

có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất

nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho con

người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng

hạn, bất ngờ bị ốm đau hoặc bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi

tuổi già đến khả năng lao động hay khả năng tự phục vụ bị suy giảm… Khi

rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì

thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số

nhu cầu mới như: cần được khám và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật

nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng… Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn

định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra nhiều cách giải

quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong một nội bộ cộng đồng;

đi vay, đi mượn hoặc dựa vào sự cứu trợ của nhà nước… Rõ ràng, những

cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!