Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhật bản trên địa bàn hà
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình hội nhập, làn sóng đầu tư của nước ngoài vào Việt
Nam ngày càng gia tăng trong đó có nhiều doanh nghiệp của Nhật Bản. Đến
cuối năm 2006, đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam
đạt 7,4 tỷ USD. Nhật Bản đang được coi là nhà đầu tư hiệu quả nhất tại Việt
Nam, đứng đầu về số vốn thực hiện, trong đó chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực
công nghiệp (85%). Chính phủ hai nước đều thể hiện quyết tâm tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhật Bản làm ăn tại Việt Nam thông qua
việc ký kết và thực hiện Hiệp định xúc tiến, bảo hộ đầu tư và sáng kiến chung
nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Lực lượng lao động Việt Nam được thu hút vào làm việc trong các
doanh nghiệp Nhật Bản ngày càng nhiều. Điều đó đã đóng góp đáng kể vào
sự ổn định và phát triển nền kinh tế, nó giải quyết được nhiều việc làm và thu
nhập cho người lao động.
Trong thời gian qua thực tế cho thấy, lợi ích người lao động trong các
doanh nghiệp có vốn Nhật Bản, phần lớn được đảm bảo, không xảy ra các
cuộc đình công, bãi công của công nhân, ông chủ đánh đập công nhân như
một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khác …
Bên cạnh những thành tựu đó cũng còn có những hạn chế gây ảnh
hưởng đến lợi ích của người lao động mà nếu để kéo dài sẽ gây bất lợi không
nhỏ đối với sự phát triển không chỉ của người lao động mà còn đối với chính
DN. Đầu tháng 10.2006, Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) đã
công bố kết quả điều tra về xu hướng và các vấn đề lực lượng lao động và
tình hình phát triển nguồn nhân lực ở châu Á, trong đó có Việt Nam. Kết quả
của cuộc điều tra này cho thấy, tại Việt Nam, tỷ lệ các công ty lo ngại về vấn
đề tăng lương đặc biệt cao, chiếm tới 75,9%. Mặc dù tăng lương là xu hướng
1
khá phổ biến ở hầu hết các nước, nhưng ở Việt Nam, các công ty Nhật Bản
vẫn khai thác được lợi thế về mức lương thấp. Xét tới mức lương hàng tháng,
khoảng cách giữa lương của các công nhân ở Việt Nam và ở miền Nam Trung
Quốc có khoảng cách đáng kể, khoảng 70 – 80 USD (với cùng một công việc
như nhau) [43].
Do đó, vấn đề lợi ích kinh tế của người lao động làm việc trong các
doanh nghiệp có vốn nước ngoài là một vấn đề cần được nghiên cứu trong
tình hình hiện nay, để có những giải pháp cần thiết. Xuất phát từ thực tế đó,
Học viên chọn đề tài: "Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội" làm luận văn thạc
sĩ Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề lợi ích kinh tế ở các DN nói chung và các DN có vốn đầu tư
nước ngoài nói riêng đã có một số tác giả đã nghiên cứu:
- Lợi ích kinh tế cá nhân của người lao động trong các doanh
ngiệpNhà nước ở nước ta (Qua thực tiễn ở Hải Phòng) (Luận văn Thạc sĩ,
1995) của Đỗ Đăng Dân.
- Lợi ích kinh tế của người lao động, vai trò của công đoàn với việc
bảo vệ lợi ích này trong các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân (Luận văn
Thạc sĩ, 1995) của Nguyễn Lợi.
- Trần Quang Lâm, An Như Hải chủ biên (2006), Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Đỗ Lộc Diệp (2003), Mỹ - Âu - Nhật văn hoá và phát triển, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
- Trần Thị Nhung, Nguyễn Huy Dũng (2005). Phát triển nguồn nhân
lực trong các công ty Nhật Bản hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản (Luận văn Thạc sĩ, 1998) của
Đỗ Viết Thẩn.
2
- Bàn về sự hình thành và kết hợp các lợi ích kinh tế trong nông nghiệp
tập thể hiện nay ở nước ta (Luận án. PTS, 1988) của Nguyễn Duy Hùng
- Lợi ích kinh tế của người lao động và vận dụng nó vào lực lượng vũ
trang trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam (Luận án Tiến sĩ khoa học
quân sự, 1998), Học viện chính trị Quân Sự
Tuy nhiên để đi sâu vào vấn đề "Lợi ích kinh tế của người lao động
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội"
thì chưa có tác giả nào nghiên cứu. Do đó, chúng tôi đã chọn đề tài này để
nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở kế thừa các tư liệu đã có, kết hợp với khảo sát thực tiễn
nhằm góp phần làm rõ thêm những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn lợi ích
kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật
Bản trên địa bàn Hà Nội. Trên cơ sở đó nhằm đề xuất những phương hướng
và giải pháp góp phần bảo vệ lợi ích kinh tế cho người lao động trong các
doanh nghiệp có vốn nước ngoài.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích trên, luận văn đi vào giải quyết các nhiệm
vụ sau:
Một là: Hệ thống hoá làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích
kinh tế nói chung và lợi ích kinh tế cá nhân người lao động nói riêng.
Hai là: Đi sâu nghiên cứu về thực trạng tình hình lợi ích kinh tế của
người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhật Bản, vạch ra
những mặt ưu điểm và hạn chế cần phải khắc phục.
Ba là: Đề ra được hệ thống giải pháp, nhằm bảo vệ lợi ích của người
lao động. Từ đó đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các doanh
nghiệp Nhật, góp phần vào công cuộc xây dựng, kiến thiết, nhằm thực hiện
thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế trên địa bàn thủ đô và trong cả nước.
3
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Đầu tư nước ngoài là một phạm trù rộng, luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản.
- Đề tài chỉ nghiên cứu lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội, còn sự đầu tư của các
quốc gia, và các lĩnh vực khác không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn.
- Phạm vi nghiên cứu là các tư liệu có được trong khoảng thời gian từ
năm 1993 – 2006.
4. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp chủ yếu của Kinh tế chính trị Mác – Lênin,
luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: khảo sát thực tiễn, thống
kê, phỏng vấn chuyên gia, phân tích tổng hợp, so sánh…
5. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Với những kết quả nghiên cứu đã đạt được trên đây, luận văn có thể
sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập ở các trường Cao đẳng
và Đại học trong khuôn khổ môn Kinh tế chính trị.
- Luận văn có thể sử dụng là tài liệu tham khảo bổ ích cho việc soạn
thảo các văn bản pháp lý đối với việc sử dụng lực lượng lao động của các
doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Thông qua những thành tựu và những đóng góp. luận văn có những ý
nghĩa thực tiến góp phần giúp cho các doanh nghiệp nước ngoài có vốn đầu tư
ở Việt Nam cần phải có quan điểm và nhận thức sâu sắc về vai trò của lợi ích
kinh tế đối với người lao động, trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên cơ
sở đó họ có thái độ cư xử đúng đắn, phù hợp với đạo đức, với quy ước của
pháp luật trong quá trình các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
4
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.1. LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
1.1.1. Bản chất lợi ích kinh tế và lợi ích kinh tế của người lao động
1.1.1.1. Bản chất của lợi ích kinh tế
Trong bất cứ nền sản xuất xã hội nào, lợi ích kinh tế đều là mối quan tâm
của tất cả các chủ thể kinh tế và các thành viên trong xã hội. Điều đó được biểu
hiện rất đa dạng, phong phú. Do đó, lợi ích kinh tế là vấn đề cơ bản xuyên suốt
mọi nền sản xuất, của toàn bộ tiến trình vận động và phát triển của lịch sử. Theo
quan điểm của các nhà kinh điển thì lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của những
quan hệ xã hội, những quan hệ kinh tế trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong tác phẩm “Vấn đề nhà ở” Ph.Ăngghen đã viết: “Những quan hệ
kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi
ích” [30, tr.376].
Khi bàn về lợi ích các nhà nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước từ
nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đã nêu lên những khái niệm về lợi ích kinh tế:
V.P Ca-man-kin cho rằng: “Lợi ích kinh tế của một chủ thể nhất định là
sự tác động lẫn nhau giữa các nhu cầu kinh tế của chủ thể đó” [6, tr.13].
Theo quan điểm của tác giả Đào Duy Tùng thì: Lợi ích kinh tế là hình
thức biểu hiện những quan hệ kinh tế, quan hệ giữa người và người trong sản
xuất [39, tr.9].
Điều này thể hiện: người nào nắm tư liệu sản xuất, điều hành quá trình
sản xuất, quyết định phân phối sản phẩm cũng chính là người giữa vai trò
quyết định trong hệ thống sản xuất.
Tác giả Vũ Hữu Ngoạn cũng khẳng định: Lợi ích kinh tế là một phạm trù
kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện trước hết của quan hệ sản xuất… Lợi
ích kinh tế là cơ chế tác động chung của tất cả các quy luật kinh tế [33].
5
Bàn về lợi ích kinh tế tác giả Khoa Minh lại cho rằng: Lợi ích kinh tế là
sự biểu hiện của những quan hệ kinh tế đối với việc thoả mãn những nhu cầu
vật chất cần thiết cho đời sống dưới hình thức mục đích xác định của hoạt
động kinh tế của con người…Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện cụ thể các
quan hệ kinh tế và quy luật phản ánh các quan hệ kinh tế đó [32, tr. 296].
Theo Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin: Lợi ích kinh tế là lợi ích
vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách quan của các chủ thể kinh tế
khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ sản
xuất quyết định [2, tr.289].
Từ những quan điểm khác nhau trên thấy rằng: Trong bất cứ xã hội nào
con người muốn tồn tại phải thoả mãn nhu cầu về ăn mặc, ở, đi lại, bảo vệ sức
khoẻ, học tập và giải trí. Nói cách khác con người muốn sống, tồn tại cần thoả
mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần để phát triển thể lực và trí lực của
mình. Toàn bộ những nhu cầu đó được biểu hiện dưới một hình thức chung
nhất chính là lợi ích kinh tế. Nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển
kinh tế xã hội.
Trong xã hội có nhiều động lực như động lực kinh tế, chính trị … song
động lực chủ yếu, suy cho cùng, là động lực kinh tế vì nó có ý nghĩa quyết
định thúc đẩy con người hành động, chi phối nội dung các động lực khác.
Cuộc sống của con người bao giờ cũng đòi hỏi nhu cầu vật chất và văn hoá
ngày càng cao. Nhưng không phải bất kỳ nhu cầu nào của con người cũng
được thoả mãn và đều là lợi ích kinh tế, mà chỉ có những nhu cầu mang tính
hiện thực mới được thoả mãn và mới thuộc phạm trù lợi ích kinh tế. Nhu cầu
đó phụ thuộc vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất nhất định. Hay
chính là: không phải bản thân nhu cầu là lợi ích kinh tế, mà nhu cầu khi được
xác định về mặt xã hội mới trở thành lợi ích kinh tế. Như vậy, lợi ích kinh tế
có liên quan đến nhu cầu của con người. Nhưng không phải mọi nhu cầu của
con người đều trở thành lợi ích kinh tế, mà chỉ có những nhu cầu vật chất
(nhu cầu kinh tế) mới trở thành lợi ích kinh tế.
6
Về bản chất phải khẳng định rằng: Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh
tế khách quan. Lợi ích kinh tế muốn được thực hiện phải thông qua hoạt động
có nhận thức của con người. Và con người càng nhận thức tự giác được phạm
trù lợi ích, thì hoạt động của họ càng thu được kết quả cao.
Quan hệ sản xuất là khách quan, nó luôn tồn tại trong vận động (như
mọi sự vật hiện tượng). Sự vận động của QHSX biểu hiện ở sự vận động của
các quy luật kinh tế do nó trực tiếp sinh ra (nghĩa là khi QHSX được xác lập,
làm nảy sinh các quy luật kinh tế phù hợp với bản chất của QHSX). Thông
qua sự vận động của các quy luật kinh tế mà QHSX ảnh hưởng tới quá trình
sản xuất. Mỗi quy luật kinh tế, phản ánh một mặt của QHSX, các quy luật
kinh tế là quy luật xã hội, phương thức hoạt động của chúng đều phải thông
qua con người. Do đó, tính khách quan của quy luật kinh tế thể hiện qua lợi
ích kinh tế để chi phối con người hành động theo quy luật.
Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của QHSX, là một khâu chính của
cơ chế tác động chung của quy luật kinh tế do QHSX sinh ra. Không có lợi
ích kinh tế thuần tuý tồn tại ngoài con người hoặc là con người không ý thức
gì về lợi ích. Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, những con
người có khả năng nhận thức nó và vì nó mà hành động. Ở đây, cái khách
quan được biểu hiện dưới dạng chủ quan, mang hình thức chủ quan, cái chủ
quan do khách quan qui định. Trong thực tế, các động cơ hành động kinh tế
của con người có vẻ chủ quan nhưng thực ra nó là động cơ mang tính khách
quan. Một mặt, thông qua lợi ích, con người mưu cầu đời sống; mặt khác,
thông qua lợi ích mà xu hướng phát triển khách quan của sản xuất xã hội
được thực hiện. Vì vậy, lợi ích (trước hết là lợi ích kinh tế) trở thành một
trong những động lực cơ bản, phổ biến thúc đẩy sản xuất và đời sống xã hội
phát triển. Ph.Ăngghen cho rằng, lợi ích kinh tế là những động cơ đã lay
chuyển những quân chúng đông đảo. Và khi chúng biến thành sự kích thích
hoạt động của con người “thì chúng lay động đời sống nhân dân”.
7
Từ sự tiếp cận ở trên có thể khẳng định rằng: Lợi ích kinh tế là một
phạm trù kinh tế khách quan nó phát sinh và tồn tại trên cơ sở của một quan
hệ sản xuất nhất định, là hình thức biểu hiện trước hết của quan hệ sản xuất và
phản ánh mặt bản chất nhất của QHSX. Lợi ích kinh tế không tuỳ thuộc vào
yếu tố chủ quan của con người (không tuỳ thuộc ở chỗ là con người có nhận
thức được nó hay không, mà do địa vị của họ trong QHSX quyết định).
1.1.1.2. Lợi ích kinh tế của người lao động
Hiện nay ở Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào với hơn 49
triệu người (hàng năm tăng thêm từ 1,3 đến 1,5 triệu người), đang hoạt động
trong các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế khác nhau của nền kinh
tế quốc dân, bao gồm tất cả những người làm việc trong lĩnh vực sản xuất vật
chất và sản xuất không vật chất; những người có chuyên môn kỹ thuật; người
lao động trực tiếp và gián tiếp, người lao động chân tay và trí óc…Do sự phát
triển của phân công lao động xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế, sự gia nhập
WTO và nhất là trong một nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường định hướng XHCN, thì cần coi tất cả mọi người - bất kỳ ai? làm gì?
ở đâu? thuộc thành phần kinh tế nào? Tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra
sản phẩm cho xã hội và thu nhập quốc dân là người lao động
Người lao động ở mọi thời đại kinh tế, đều là những người trực tiếp sản
xuất ra của cải vật chất, ra những vật phẩm có giá trị sử dụng cho bản thân và
cho xã hội. Nhưng trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, địa vị kinh
tế và do đó địa vị xã hội của họ trong hệ thống các quan hệ kinh tế - xã hội
cũng khác nhau. Rõ ràng lợi ích kinh tế của người nô lệ lao động dưới roi vọt
của người quản nô khác hoàn toàn với lợi ích kinh tế của người công nhân
làm thuê, dưới sự quản lý của các chủ tư bản.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, khi người lao động
tự do làm việc theo năng lực và hưởng theo thành quả lao động của mình. Giá
trị sức lao động được quy về giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết
8