Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Lễ hội truyền thống của người Cao Lan ở Tuyên Quang
PREMIUM
Số trang
242
Kích thước
14.1 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
715

Lễ hội truyền thống của người Cao Lan ở Tuyên Quang

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

----------------------------

ĐẶNG CHÍ THÔNG

LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA

NGƢỜI CAO LAN Ở TUYÊN QUANG

Chuyên ngành : Nhân học văn hoá

Mã số : 62 31 65 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC VĂN HOÁ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS.Phạm Quang Hoan

2. PGS.TS. Hà Đình Thành

Hà Nội - 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả trong luận án là kết quả điều tra thực địa và thu thập tƣ liệu của

tác giả luận án.

Nghiên cứu sinh

Đặng Chí Thông

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận án Tiến sĩ về đề tài : Lễ hội truyền thống của ngƣời

Cao Lan ở Tuyên Quang, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:

- Thƣờng vụ Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trƣờng Đại học Văn hóa Nghệ

thuật Quân đội – nơi tôi đang công tác, đã tạo điều kiện về thời gian để tôi

hoàn thành chƣơng trình học tập và bản luận án này;

- Học viện Khoa học xã hội và Khoa Dân tộc học đã tận tình giúp đỡ,

tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận án;

- Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quang, Lãnh đạo và

đồng bào Cao Lan ở các địa phƣơng nơi tôi đã tiến hành nghiên cứu đã nhiệt

tình giúp đỡ và cộng tác giúp tôi thu thập thông tin, tƣ liệu của luận án;

- Gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã chia sẻ, khích lệ tôi trong thời

gian thực hiện luận án;

- Tập thể hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Quang Hoan và PGS.

TS. Hà Đình Thành đã tƣ vấn, định hƣớng khoa học rõ ràng cho tôi trong quá

trình học tập và thực hiện luận án. Tập thể hƣớng dẫn đã có những ý kiến gợi

mở và đóng góp trực tiếp vào các nội dung nghiên cứu của luận án.

Xin chân thành cảm ơn.

Hà Nội, ngày 5 tháng 6 năm 2013

Nghiên cứu sinh

Đặng Chí Thông

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Tính cấp thiết của đề tài...................................................................................1

2. Mục tiêu nghiên cứu.........................................................................................2

3. Đối tƣợng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu ...................................................3

4. Nguồn tƣ liệu của luận án................................................................................5

5. Đóng góp của luận án.......................................................................................6

6. Cấu trúc của luận án ........................................................................................6

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ

THUYẾT, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ KHÁT QUÁT VỀ

NGƢỜI CAO LAN .................................................................................. 7

1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu ..................................................................7

1.1.1.Tổng quan nghiên cứu về người Cao Lan ở Việt Nam ...................... 7

1.1.2. Tổng quan nghiên cứu về lễ hội và lễ hội của người Cao Lan........ 13

1.2. Cơ sở lý thuyết..............................................................................................17

1.2.1. Một số khái niệm cơ bản .................................................................. 17

1.2.2. Hướng tiếp cận................................................................................. 21

1.2.3. Lý thuyết nghiên cứu ........................................................................ 21

1.3. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................24

1.4. Khái quát về ngƣời Cao Lan ở Việt Nam và tỉnh Tuyên Quang ..........25

1.4.1. Một số đặc điểm về dân số và địa bàn cư trú ................................. 25

1.4.2. Một số đặc điểm về kinh tế............................................................... 28

1.4.3. Một số đặc điểm về văn hoá vật chất............................................... 30

1.4.4. Một số đặc điểm về văn hoá xã hội.................................................. 33

1.4.5. Một số đặc điểm về văn hoá tinh thần ............................................. 36

Tiểu kết chương 1....................................................................................... 45

Chƣơng 2: CÁC LỄ HỘI Ở ĐÌNH VÀ NGOÀI ĐÌNH CỦA NGƢỜI

CAO LAN .............................................................................................. 47

2.1. Các lễ hội ở đình ..........................................................................................47

2.2.1. Lễ hội đình Giếng Tanh, xã Kim Phú, huyện Yên Sơn..................... 47

2.2.2. Lễ hội đình làng Minh Cầm, xã Đội Cấn, huyện Yên Sơn............... 62

2.2.3. Lễ hội đình làng Mãn Hoá, xã Đại Phú, huyện Sơn Dương............ 78

2.2.4. So sánh lễ hội đình làng của người Cao Lan ở điểm nghiên cứu.... 80

2.3. Các lễ hội ngoài đình ...................................................................................81

2.3.1. Lễ hội ngoài đình của người Cao Lan ở xã Kim Phú ..................... 81

2.3.2. Lễ hội ngoài đình của người Cao Lan ở xã Đội Cấn .................... 83

2.3.3. Lễ hội ngoài đình của người Cao Lan ở xã Đại Phú....................... 90

2.4. Các lễ hội đình làng của ngƣời Cao Lan ở các địa phƣơng khác.........91

2.4.1. Lễ hội đình làng Ngọc Tân, xã Ngọc Quang, huyện Đoan Hùng,

tỉnh Phú Thọ............................................................................................... 91

2.4.2. Lễ hội xuống đồng ở Xóm Mới, xã Quang Yên, huyện Sông Lô,

tỉnh Vĩnh Phúc............................................................................................ 96

Tiểu kết chương 2..................................................................................... 104

Chƣơng 3: CÁC GIÁ TRỊ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI

CAO LAN Ở TUYÊN QUANG TRONG BỐI CẢNH MỚI............ 106

3.1. Bối cảnh mới và quan điểm bảo tồn, phát huy các giá trị của lễ hội

truyền thống ......................................................................................................106

3.1.1. Bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập .... 106

3.1.2.Quan điểm của Đảng, Nhà nước và tỉnh Tuyên Quang về bảo tồn

và phát huy các giá trị của lễ hội truyền thống ....................................... 108

3.2. Các giá trị lễ hội của ngƣời Cao Lan trong bối cảnh hiện nay...........114

3.2.1. Giá trị văn hoá ............................................................................... 114

3.2.2. Giá trị lịch sử ................................................................................. 116

3.2.3. Giá trị kinh tế ................................................................................. 117

3.2.4. Giá trị xã hội trong đời sống đương đại........................................ 118

3.3. Biến đổi của lễ hội truyền thống ..............................................................119

3.3.1. Biến đổi về không gian và hình thức tổ chức lễ hội...................... 119

3.3.2. Biến đổi của các nghi lễ và các trò chơi........................................ 122

3.3.3. Biến đổi trong nhận thức về vị trí, vai trò của lễ hội trong đời sống

cộng đồng ................................................................................................. 124

3.4. Một số giải pháp phát huy các giá trị lễ hội truyền thống của ngƣời

Cao Lan..............................................................................................................125

3.4.1. Nhóm giải pháp về chính sách ....................................................... 126

3.4.2. Nhóm giải pháp về kinh tế - xã hội ................................................ 129

3.4.3. Nhóm giải pháp về văn hoá............................................................ 130

3.4.4. Tiếp tục đẩy mạnh sưu tầm, nghiên cứu ........................................ 131

Tiểu kết chương 3..................................................................................... 131

Chƣơng 4: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN ....................................................... 133

4.1. Vai trò của lễ hội trong đời sống tinh thần của cộng đồng ngƣời Cao Lan..133

4.2. Phát huy các giá trị của lễ hội truyền thống phục vụ phát triển.........136

4.3. Vai trò của cộng đồng ngƣời Cao Lan trong quản lý lễ hội.................142

Tiểu kết chương 4..................................................................................... 145

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 147

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 152

PHỤ LỤC........................................................................................................ 162

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hoá cộng đồng không thể

thiếu trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam. Lễ hội là dịp bày tỏ sự

tôn vinh, tƣởng niệm những ngƣời đã đƣợc cộng đồng suy tôn, bao gồm các

vị nhân thần, thiên thần và cả những hiện tƣợng tự nhiên - xã hội khác.

Lễ hội chứa đựng các giá trị văn hoá truyền thống đã đƣợc chắt lọc, kết

tinh qua nhiều thế hệ nhƣ lối sống, phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngƣỡng,

văn hoá nghệ thuật... Các giá trị ấy có tác động sâu sắc đến việc hình thành

cốt cách, tình cảm, diện mạo văn hoá của cộng đồng, là những thành tố quan

trọng cấu thành nền văn hoá truyền thống Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.

Nhiều năm qua, lễ hội truyền thống ở Việt Nam đã trải qua những bƣớc

thăng trầm: có khi lắng xuống, có khi lại phát triển ồ ạt, thiếu tính tổ chức.

Trong những nguyên nhân của thời kỳ lắng xuống ấy có thể kể đến những

nguyên nhân khách quan nhƣ chiến tranh hay kinh tế đất nƣớc còn nhiều

khó khăn; trong những nguyên nhân chủ quan phải kể đến việc nhận thức và

cách thức quản lý của các nhà quản lý văn hóa - xã hội; có lúc ngƣời ta coi

tổ chức lễ hội là một sự lãng phí, tốn kém tiền của của nhân dân, là mê tín dị

đoan… nên đã đƣa ra những quyết định quản lý lễ hội nặng về cấm đoán

hành chính, thiếu căn cứ khoa học. Chính vì thế, nhiều lễ hội truyền thống

không đƣợc vận hành theo đúng qui luật của văn hóa, nhiều giá trị văn hóa

đặc sắc của lễ hội theo đó cũng bị mai một dần.

Trong những năm gần đây, tình hình dƣờng nhƣ có xu hƣớng ngƣợc

lại, lễ hội phát triển ồ ạt, không đƣợc định hƣớng một cách có tổ chức, khoa

học và nhiều yếu tố ngoại lai đã xuất hiện trong lễ hội. Các nhà quản lý văn

hóa đã nhận thức rõ hơn về lễ hội và coi lễ hội là nhu cầu thực sự, khách

quan của nhân dân; nhu cầu này cần phải đƣợc thoả mãn một cách chính

đáng. Tuy nhiên, họ lại phải đứng trƣớc một tình huống quản lý không hề

đơn giản: không thể đƣa ra những quyết định cấm nhƣ thời kỳ trƣớc đây,

2

nhƣng cũng chƣa thể đƣa ra những quyết định khác có thể định hƣớng, điều

chỉnh tình trạng phát triển ồ ạt của lễ hội hiện nay.

Văn hoá của ngƣời Cao Lan ở Tuyên Quang, trong đó có lễ hội truyền

thống đã có từ lâu đời, trở thành một bộ phận không thể tách rời của văn hoá

các dân tộc ở Việt Nam. Những giá trị văn hoá trong lễ hội đã hình thành

nên cốt cách tình cảm, diện mạo của cộng đồng ngƣời Cao Lan. Những lễ

hội ấy đƣợc lƣu truyền từ đời này sang đời khác, trải qua những thăng trầm

biến động của lịch sử, đƣợc chắt lọc, bổ sung trở thành bản sắc văn hoá rất

riêng của ngƣời Cao Lan. Việc nhận diện đầy đủ và nghiên cứu chuyên sâu,

có hệ thống về lễ hội truyền thống của ngƣời Cao Lan ở Tuyên Quang sẽ

góp phần làm cho bản sắc văn hoá Việt Nam càng thêm rõ nét “đa dạng và

thống nhất, thống nhất trong đa dạng”.

Thông qua việc nghiên cứu lễ hội truyền thống của ngƣời Cao Lan ở

Tuyên Quang, luận án còn cung cấp những luận cứ khoa học, giúp các cấp

chính quyền địa phƣơng nhận rõ những giá trị đích thực của nó để có hƣớng

bảo tồn, kế thừa và phát huy một cách phù hợp các giá trị văn hoá truyền

thống nhằm phục vụ việc xây dựng đời sống văn hoá lành mạnh ở cơ sở.

Đồng thời góp phần vào việc xây dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nƣớc và hội nhập quốc tế hiện nay.

Với những lý do trên, chúng tôi chọn Lễ hội truyền thống của người

Cao Lan ở tỉnh Tuyên Quang làm đề tài luận án tiến sĩ Nhân học văn hoá

của mình.

2. Mục tiêu nghiên cứu

- Trên cơ sở tập hợp, khảo tả và phân tích các tƣ liệu, luận án tập trung

làm rõ những đặc điểm cùng những giá trị văn hoá trong lễ hội truyền thống

của ngƣời Cao Lan.

3

- Chỉ ra những biến đổi của lễ hội truyền thống của ngƣời Cao Lan

trong quá trình giao lƣu, tiếp biến văn hoá với các tộc ngƣời khác cùng cƣ

trú trong vùng.

- Bƣớc đầu so sánh những tƣơng đồng và khác biệt trong lễ hội truyền

thống của ngƣời Cao Lan giữa các địa phƣơng trong và ngoài tỉnh Tuyên Quang.

- Góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc bảo tồn và phát huy

những giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống, đồng thời đề xuất một số giải

pháp nhằm phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống Cao Lan

trong bối cảnh phát triển và hội nhập.

3. Đối tƣợng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án

- Luận án đi sâu tìm hiểu các loại hình lễ hội, những biến đổi của lễ hội

truyền thống của ngƣời Cao Lan ở một số địa phƣơng trong tỉnh Tuyên Quang.

3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án

- Phạm vi nghiên cứu là lễ hội truyền thống của ngƣời Cao Lan ở

Tuyên Quang, trong đó chú trọng nghiên cứu bối cảnh không gian, diễn biến

và những biến đổi của lễ hội. Nghiên cứu lễ hội theo lịch đại và đồng đại để

thấy rõ những nét đặc trƣng, các giá trị văn hoá, xã hội của lễ hội cả trong

truyền thống và hiện nay.

3.3. Địa bàn nghiên cứu

Luận án chọn địa bàn nghiên cứu chính là tỉnh Tuyên Quang. Vì Tuyên

Quang là tỉnh có ngƣời Cao Lan cƣ trú đông nhất trong cả nƣớc và nhiều lễ

hội truyền thống của ngƣời Cao Lan vẫn còn duy trì cho đến ngày nay.

Nghiên cứu đƣợc tập trung thực hiện tại hai huyện có ngƣời Cao Lan

cƣ trú tập trung nhất: Yên Sơn và Sơn Dƣơng.

- Huyện Yên Sơn

+ Làng Giếng Tanh, xã Kim Phú: Làng Giếng Tanh, nơi có lễ hội đình

Giếng Tanh nổi tiếng của ngƣời Cao Lan vẫn đƣợc duy trì cho đến ngày

nay.

Địa bàn nghiên cứu chủ yếu của luận án là làng Giếng Tanh, xã Kim

Phú. Xã Kim Phú có số dân là 8.250 ngƣời, với 1.970 hộ trong đó ngƣời

4

Cao Lan là 6.325 ngƣời, chiếm gần 12% so với tổng số 54.095 ngƣời Cao

Lan có mặt tại Tuyên Quang. Ngƣời Cao Lan ở Kim Phú sống thành từng

thôn, cả xã có 22 thôn, trong đó một số thôn chủ yếu là ngƣời Cao Lan, rất ít

các dân tộc khác sống xen kẽ. Mặc dù chỉ cách thành phố Tuyên Quang

7km, nhƣng Kim Phú không bị ảnh hƣởng của lối sống đô thị. Kim Phú

đƣợc coi là nơi đầu tiên ngƣời Cao Lan đến sinh sống ở Tuyên Quang và

làng Giếng Tanh đƣợc coi là nơi đầu tiên ngƣời Cao Lan đặt chân đến

Tuyên Quang. Hiện nay, 100% các gia đình trong làng đều là ngƣời Cao

Lan và lễ hội ở đình làng Giếng Tanh luôn thu hút đƣợc đông đảo ngƣời Cao

Lan và các dân tộc khác trong vùng đến dự.

+ Làng Minh Cầm, xã Đội Bình: Làng Minh Cầm với lễ hội đình làng

Thiên Cầm đang có xu hƣớng đƣợc phục hồi và phát triển.

Làng Minh Cầm, xã Đội Bình, huyện Yên Sơn cách thành phố Tuyên

Quang 15 km về hƣớng Tây – Nam, có dân số 7.639 ngƣời, chủ yếu là

ngƣời Kinh và ngƣời Cao Lan. Ngƣời Cao Lan có 1.864 ngƣời, cƣ trú tập

trung tại 3 làng, kinh tế chủ yếu là làm nông nghiệp. Làng Minh Cầm hiện

nay vẫn còn lƣu giữ đƣợc đình làng và các lễ hội đình làng truyền thống của

ngƣời Cao Lan.

- Huyện Sơn Dương

+ Làng Mãn Hóa, xã Đại Phú: Trên địa bàn làng Mãn Hoá, lễ hội đình

làng đã từng diễn ra trong lịch sử, nhƣng từ sau năm 1975, do nhiều yếu tố

chủ quan và khách quan, lễ hội đình làng Mãn Hoá không đƣợc duy trì cho

đến ngày nay.

Xã Đại Phú, huyện Sơn Dƣơng cũng là địa bàn cƣ trú lâu đời của

ngƣời Cao Lan. Mặc dù các lễ hội truyền thống không còn đƣợc tổ chức nhƣ

ở làng Giếng Tanh, xã Kim Phú, nhƣng ngƣời Cao Lan ở Đại Phú vẫn giữ

đƣợc nhiều nét đặc trƣng trong phong tục tập quán. Dân số của xã là 10.014

ngƣời, trong đó ngƣời Cao Lan có 6.550 ngƣời. Xã Đại Phú tuy không còn

5

đình làng nhƣng nhiều nét sinh hoạt văn hóa truyền thống của ngƣời Cao Lan

vẫn còn đƣợc lƣu giữ.

Ngoài Tuyên Quang, Luận án còn nghiên cứu lễ hội của ngƣời Cao Lan ở

làng Ngọc Tân, xã Ngọc Quang, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ và xã

Quang Yên, huyện Sông Thao, tỉnh Vĩnh Phúc.

Làng Ngọc Tân với 100% ngƣời Cao Lan, nằm cách Quốc lộ 70 đi

Yên Bái 2km. Làng vẫn còn giữ đƣợc ngôi đình đƣợc xây dựng từ năm

1880. Lễ hội đình làng Ngọc Tân vẫn đƣợc tổ chức hàng năm. Nhiều phong

tục tập quán của ngƣời Cao Lan ở Ngọc Tân vẫn còn đƣợc duy trì.

- Quang Yên là xã miền núi của huyện Sông Lô, giáp huyện Sơn

Dƣơng của tỉnh Tuyên Quang. Ngƣời Cao Lan ở Quang Yên có 370 hộ,

1450 nhân khẩu, chiếm 25% dân số toàn xã, cƣ trú tập trung ở 4 thôn: Xóm

Mới (Bản Mo), Đồng Dong, Đồng Dạ, Đồng Găng. Hoạt động kinh tế chủ

yếu của ngƣời Cao Lan là làm nông nghiệp. Đình của ngƣời Cao Lan chỉ

còn ở thôn Xóm Mới thờ Thành hoàng làng làng và 5 vị tƣớng. Các sinh

hoạt truyền thống của ngƣời Cao Lan trong vùng chủ yếu vẫn diễn ra ở đình

làng Xóm Mới.

4. Nguồn tƣ liệu của luận án

Nguồn tƣ liệu sử dụng trong luận án chủ yếu là tài liệu điền dã do tác

giả luận án thu thập tại địa bàn nghiên cứu. Tác giả đã kế thừa một phần nội

dung luận văn Thạc sĩ đã hoàn thành từ năm 2003. Trong thời gian thực hiện

luận án, tác giả đã tiến hành khảo sát nhiều đợt, ở nhiều địa bàn khác nhau

để tìm hiểu, nghiên cứu về lễ hội của ngƣời Cao Lan tại các địa phƣơng của

tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc.

Bên cạnh đó, tác giả luận án còn sử dụng các nguồn tài liệu thứ cấp nhƣ

các văn bản về chủ trƣơng, chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn

hóa của lễ hội truyền thống; các số liệu thống kê của Trung ƣơng và địa

phƣơng; các tài liệu về kinh tế - xã hội của tỉnh Tuyên Quang. Ngoài ra, tác

6

giả còn thừa kế kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học về dân tộc Sán

Chay và ngƣời Cao Lan đã công bố.

5. Đóng góp của luận án

- Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu về lễ hội truyền thống

của ngƣời Cao Lan nhằm góp phần làm rõ diện mạo và sắc thái văn hoá địa

phƣơng của ngƣời Cao Lan ở tỉnh Tuyên Quang.

- Luận án bƣớc đầu xác định những đặc trƣng cơ bản trong lễ hội

truyền thống của ngƣời Cao Lan cũng nhƣ những biến đổi của nó, từ đó rút

ra những giá trị văn hóa của lễ hội và đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn,

phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nƣớc và xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc.

- Luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính

sách nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội

của ngƣời Cao Lan phục vụ công cuộc phát triển hiện nay.

6. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận án có 4

chƣơng, gồm:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết, phƣơng

pháp nghiên cứu và khái quát về ngƣời Cao Lan

Chương 2: Các lễ hội ở đình và ngoài đình của ngƣời Cao Lan

Chương 3: Phát huy vai trò của lễ hội truyền thống ngƣời Cao Lan ở

Tuyên Quang trong bối cảnh mới

Chương 4: Kết quả và bàn luận

7

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ

THUYẾT, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ KHÁT QUÁT

VỀ NGƢỜI CAO LAN

1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1.Tổng quan nghiên cứu về người Cao Lan ở Việt Nam

1.1.1.1. Các nghiên cứu về nguồn gốc, lịch sử tộc người

Đến nay đã có nhiều nghiên cứu khẳng định về nguồn gốc của ngƣời

Cao Lan là ở Quảng Đông, Quảng Tây – Trung Quốc. Nhƣng ngƣời Cao

Lan có nguồn gốc từ nhóm tộc ngƣời nào ở Trung Quốc là vấn đề đã đƣợc

đặt ra lâu nay và cần phải tiếp tục nghiên cứu. Trong cuốn Kiến văn tiểu lục

của Lê Quý Đôn, khi viết về xứ Tuyên Quang trong phần Về các giống

người, ông coi Cao Lan và Sơn Tử là 2 trong 7 chủng tộc Man [37, 1962,

tr.393]. Cũng theo quan điểm này, Sách Đại Nam nhất thống chí, khi đề cập

đến ngƣời Sơn Tử, Cao Lan cũng đƣợc coi nhƣ những nhóm Mán khác, khi

viết về Cao Lan cũng coi họ nhƣ những nhóm Mán Sơn Man, Mán Đại Bản,

Mán Đeo Tiền. Ở mục “Phong tục tỉnh Hƣng Hóa” có chép: “Châu Thủy Vĩ

có 3 giống Mán: Mán Sơn Tử, Mán Dao và Mán Gứng” [71, tr.15, 163, 298,

299].

Trong một tƣ liệu khác nhƣ Phong thổ ký Tuyên Quang, Vĩnh Yên,

Quảng Yên, Thái Nguyên (Minh đô sử) đều coi Cao Lan là Mán nhƣ Mán

Sơn Đầu, Mán Quần Trắng, Mán Quần Đen, Mán Đại Bản [67].

Các tác giả ngƣời Pháp cũng xếp Cao Lan vào các nhóm Mán và coi

Cao Lan nhƣ một ngành của Mán, gọi là Mán Cao Lan [9].

Theo những tài liệu do ngƣời Cao Lan cung cấp, tổ tiên của họ trƣớc

đây ở vùng Tây Hƣơng Sơn, thuộc tỉnh Quảng Đông. Từ thời Minh, họ rời

bỏ quê hƣơng đi đến Quảng Tây, từ Nam Ninh đi vào Việt Nam. Họ sinh cơ

lập nghiệp ở Sơn Dƣơng đƣợc khoảng 4 đời, một trong những việc đƣa cho

8

xem văn bằng do viên tri huyện đƣơng đạo cấp, có đóng dấu của viên quan

lại này, cho phép ngƣời Cao Lan làm ăn ở địa phƣơng. Văn bằng này đề

năm Quang Trung thứ 4 (tức năm 1791).

Nhƣ vậy, các tác giả thời phong kiến cũng nhƣ thời thuộc Pháp đều

cho Cao Lan thuộc các nhóm Mán. Cho tới những năm của thập niên 50, 60,

và đầu 70 của thế kỷ trƣớc, một số tác giả nhƣ Bùi Đình, Nguyễn Trắc Dĩ…

vẫn dựa vào những ghi chép trên mà cho rằng Cao Lan cũng là Mán nhƣ các

nhóm Mán khác [35].

Gần với các quan điểm trên, nhà nghiên cứu dân tộc học Lã Văn

Lô, Lê Văn lại không cho rằng ngƣời Cao Lan hiện tại thuộc nhóm

Mán, song trƣớc kia có thể cùng một nguồn gốc với ngƣời Mán. Để

chứng minh cho quan điểm Cao Lan có nguồn gốc Hán, Lã Văn Lô có

những kiến giải, có thể tóm tắt nhƣ sau: Người Cao Lan, một mặt tiếp

thu những kinh nghiệm và kỹ thuật sản xuất tiên tiến, mặt khác vẫn tiếp

tục làm thêm một số nương rẫy theo phương pháp nguyên thủy của

người Mán. Người Cao Lan ở nhà sàn như người Tày, người Nùng,

khác với các Mán khác ở nhà đất hoặc nửa sàn nửa đất, nhưng bố trí

bên trong nhà Cao Lan vẫn tương tự như nhà người Mán, giữa các

gian không mấy khi có vách ngăn cách. Mặt khác nhà Cao Lan ít nhiều

vẫn mang tính chất nhà ngoãm, cột kèo đục lắp sơ sài, ít nhiều vẫn

mang tính tạm bợ như nhà người Mán.

Về ăn mặc, phụ nữ Cao Lan ăn mặc như phụ nữ Tày, duy có

chiếc khăn của họ thì quấn giống như kiểu khăn của phụ nữ Mán và

tóc búi ra đằng sau gáy khác với cách vấn tóc của phụ nữ Tày. Bên

cạnh đó người già còn giữ được những chiếc áo thêu kiểu cổ mặc

trong những ngày lễ trông tựa như áo phụ nữ Mán Thanh Y. Có người

còn giữ được những chiếc yếm hồng có cài ngôi sao bạc chín cánh

giống chiếc yếm của phụ nữ Mán Sơn Đầu. Phụ nữ Cao Lan ăn mặc

theo kiểu người Tày nhưng vẫn giữ được một số đặc điểm của phục

sức phụ nữ Mán.

9

Về ngôn ngữ, tiếng nói của người Cao Lan khác hẳn tiếng nói

của người Mán; tiếng Cao Lan và tiếng Tày trên căn bản giống nhau

khi làm thơ hay hát, họ dùng chữ Hán, phát âm theo một thứ thổ ngữ

Quảng Đông, y hệt tiếng nói của người Sán Chấy.

Về một số tín ngưỡng và tục thờ cúng, người Cao Lan có nhiều

điểm giống người Mán, họ đều có truyền thuyết về Bàn Hoành (tiếng

Mán gọi là Pàn hù, tiếng Cao Lan gọi là Piên hú). Người Mán và

người Cao Lan đều có tục kiêng ăn thit chó – con vật tổ của thị tộc từ

những thời đại xa xăm trong lịch sử. Tuy nhiên đối với người Cao Lan

thì truyền thuyết Bàn Hoành đã phai mờ trong trí nhớ, không mấy ai

nhắc đến nữa.

Người Mán và người Cao Lan đều có tục mỗi khi có người

chết, làm lễ đưa hồn về Dương Châu (tỉnh Giang Tô, Trung Quốc). Lối

thờ cúng của họ cũng tương tự nhau, không có bàn thờ tổ tiên, mà tùy

từng họ, chọn một số vị thần lấy trong Phật giáo và Lão giáo thờ trong

nhà để phù hộ gia đình, chống ma tà quỷ quái [56].

Trong các nghiên cứu trƣớc đây, có khá nhiều ý kiến cho rằng ngƣời

Cao Lan vốn là nguồn gốc Mán, nhƣng do sống lâu đời xen kẽ với khối Tày

– Nùng, đã tiếp thu ngôn ngữ, tập quán sinh hoạt và sản xuất của ngƣời Tày

– Nùng, quên hẳn tiếng mẹ đẻ của mình, chỉ còn giữ lại một số tín ngƣỡng,

tập tục cũ chung với ngƣời Mán.

Khác với quan điểm cho Cao Lan thuộc các nhóm Mán hoặc có

nguồn gốc Mán, một số nhà nghiên cứu lại có những bài viết phản bác lại

quan điểm trên. Chu Quang Trứ cho rằng ngƣời Cao Lan ngày nay không

phải là một ngành của ngƣời Mán mà là một “tộc” ngƣời khác hẳn dân tộc

Mán [102, 1964]. Tác giả Nguyễn Nam Tiến đã có nhiều bài viết tƣơng đối

toàn diện từ nguồn gốc lịch sử, quá trình di chuyển cƣ đến những vấn đề

kinh tế, xã hội, văn hoá của ngƣời Cao Lan và Sán Chí và trình bày chung

cho cả hai nhóm [84, 85]. Do vậy, trong danh mục thành phần các dân tộc ít

ngƣời ở Việt Nam năm 1979, Cao Lan và Sán Chí đƣợc xếp chung vào dân

10

tộc Sán Chay. Cũng có ý kiến khác cho rằng, ngƣời Cao Lan có một lịch sử

tộc ngƣời riêng biệt, lâu đời [65; 75].

Trong những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu Dân tộc học đã rất

quan tâm tới việc xác định thành phần dân tộc của ngƣời Cao Lan. Câu hỏi

đƣợc đặt ra là: Ngƣời Cao Lan và Sán Chí có phải là một dân tộc? Kết quả

thảo luận về tộc danh của ngƣời Cao Lan đã đi đến thống nhất, “mặc dù giữa

hai nhóm Cao Lan và Sán Chí có những nét tƣơng đồng, nhất là giữa Cao

Lan ở Sơn Dƣơng, Tuyên Quang và nhóm Sán Chí ở Đại Từ, Thái Nguyên,

nhƣng nhìn chung sự khác biệt giữa họ là rất đáng kể, vì vậy xếp họ thành

hai dân tộc thuộc hai hệ ngôn ngữ khác nhau có lẽ chỉ còn là vấn đề thời

gian” [32, tr.60, 61].

1.1.1.2. Những nghiên cứu về văn hóa của người Cao Lan ở Việt Nam

Một số công trình mô tả về nhà ở, trang phục và các công cụ sản xuất,

công cụ vận chuyển của ngƣời Cao Lan. Trong đó, các tác giả đều khẳng

định, xƣa kia ngƣời Cao Lan thƣờng ở nhà sàn. Nhà sàn Cao Lan ra đời và

tồn tại trong điều kiện mà họ đã thích ứng với những điều kiện thiên nhiên.

Cƣ trú ở gần các khu rừng với rất nhiều gỗ, tre, nứa, lá dồi dào là những

nguyên vật liệu tốt để dựng nhà sàn. Ngôi nhà là nơi tiềm ẩn những giá trị

văn hóa tốt đẹp của ngƣời Cao Lan nay đã hầu nhƣ thay đổi về cả hình thức

lẫn kết cấu. Cùng với sự thay đổi đó thì nhiều giá trị văn hóa đã mất đi.

Trong truyền thống, nhà của ngƣời Cao Lan là nhà sàn, vài chục năm trƣớc

đây một số chuyển sang nhà đất và hiện nay nhiều nơi đã chuyển sang ở nhà

xây gạch mái ngói theo lối kiến trúc nhà ở của ngƣời Kinh. Do đó, vấn đề

giữ gìn bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc là rất cần thiết mà trong đó những

yếu tố mang tính văn hóa lạ càng không thể thiếu đƣợc [65; 29; 75].

Một số công trình đã đi sâu nghiên cứu về trang phục truyền thống

của ngƣời Cao Lan. Từ các công đoạn trồng bông, dệt vải đến kỹ thuật cắt

may trang phục truyền thống, làm thành nét đẹp truyền thống đặc trƣng của

đồng bào Cao Lan. Cũng nhƣ hầu hết các dân tộc, trang phục của nữ Cao

Lan phong phú hơn nam và họ rất yêu thích đồ trang sức bằng bạc. Họ có

nhiều loại trang sức đƣợc chế tác tinh vi nhƣ khuyên tai, vòng cổ, vòng tay,

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!