Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Kỹ thuật sản xuất thịt gà an toàn chất lượng cao
PREMIUM
Số trang
141
Kích thước
3.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1471

Kỹ thuật sản xuất thịt gà an toàn chất lượng cao

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

MGHiÊN CỨU GIA CẦM THỤV PHƯƠNG

TS. PHÙNG ĐÚC TIẾN

Kỷ thuật sẩn xuất

THỊT GÀ AN TOÀN

CHẤT LƯỢNG CAO

lĩt iằ ằ ii

VIỆN CHẢN NUÔI

TRUNG TÂM NGHIÊN cứu GIA CẨM THỤY PHƯƠNG

K ỹ thuât sản xuất

THỊT GÀ AN TOÀN CHẤT LƯỢNG CAO

NHÀ XUẤT BẢN NỒNG NGHIỆP

HÀ N Ộ I - 2008

BAN BIÊN TẬP

TS. PHÙNG ĐÚC TIẾN - CHỦ BIÊN

TS. PHẠM THỊ MINH THU

TS. BẠCH THỊ THANH DÂN

TS. NGUYỄN THỊ NGA

TS. NGUYỄN QUÝ KHIÊM

THS. NGUYỄN THỊ QUẢNG

THS.LÊTHỊNHU

TRUNG TÂM NGHIÊN cứu GIA CẦM THỤY PHƯƠNG

- VIỆN CHĂN NUÔI ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRlỂN

TS. Phùng Đức Tiến

Giám đốc Trung tâm

Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương được thành lập

theo quyết định số 47NN - TCCB/QĐ ngày 17 tháng 02 năm

1989 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm,

nay là Bộ Nông nghiệp và PTNT. Ra đời trên tiền đề là tổ, đội,

trại gia cầm Thụy Phương được xây dựng từ những năm đầu thập

kỷ 70 của thế kỷ 20, cơ sở vật chất rất nghèo nàn, đối tượng

nghiên cứu đơn điệu không có tác động lớn đến sản xuất. Khi

thành lập Trung tâm cũng là lúc nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế

tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa. Nông nghiệp nông thôn đi vào công cuộc đổi mới.

Chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia cầm nói riêng đối diện vói

sự khắc nghiệt của cơ chế thị trường, cơ sỏ vật chất của hình thức

chăn nuôi tập thể bị xoá sổ, nhiều đơn vị chăn nuôi tập trung bị

giải thể hoặc thua lỗ kéo dài.

Trước bối cảnh như vậy, Trung tâm đã lựa chọn hướng đi

đúng với những giải pháp chuẩn xác vận dụng linh hoạt các chủ

trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước vào các hoạt

động. Bên cạnh đó là sự giúp đỡ của Bộ Nông nghiệp và PTNT,

Bộ Tài chính, Bộ Khoa học và công nghệ, Bộ Kế hoạch và đầu

tư, các đơn vị, địa phương, các nhà khoa học trong và ngoài Bộ,

sự chỉ đạo của Viện Chăn nuôi nên Trung tâm đã không ngừng

lớn mạnh toàn diện.

3

Với nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, đối tượng ngày càng đa

dạng, phong phú từ các giông bản địa đến các dòng giống nhập

nội và các dòng giống chọn tạo trong nước trên cơ sở các nguồn

gen sẩn có như gà lông màu Ri, Mía, Hồ, Đông Tảo, gà tre, Tam

Hoàng 882, Hang cun, Lương Phượng, ISA, Sasso; gà chuyên

trứng Goldline, Brownick; gà chuyên dụng hướng thịt Plymouth

Rock, Hybro, Ross 208, Ross 308, Marshall, Hubar, Cobb; các

dòng gà đặc sản như gà Thái Hoà, gà Ác, gà Sao, gà Tây, gà

H’mông, chim câu Pháp; thuỷ cầm như ngan nội, ngan Pháp

R51, R71, Superheavy, vịt Super M2, super M3, vịt Star 53, Star

76, đà điểu, cá sấu, nhiều dòng giống lần đầu tiên vào Việt Nam.

Ngoài các lĩnh vực di truyền chọn giống, thức ăn dinh dưỡng, ấp

trứng, an toàn sinh học, thú y phòng bệnh, xây dựng mô hình,

Trung tâm đang tập trung vào lĩnh vực an toàn thực phẩm, môi

trường chán nuôi, tế bào gốc, protein dược liệu, dung dịch hoạt

hoá điện hoá. Như vậy, từ nghiên cứu cơ bản có định hướng ứng

dụng đến nghiên cứu triển khai đều được đẩy mạnh.

Những năm đầu chỉ là một số đề tài thí nghiệm ở cấp cơ sở

quy mô nhỏ nhưng đến nay Trung tâm đã phối hợp vói Đại học

Nông nghiệp I Hà Nội, Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học

quốc gia Hà Nội, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Thành

Tây, Viện Công nghệ sinh học, Viện công nghệ thực phẩm - Bộ

công nghiệp, Viện dinh dưỡng - Bộ Y tế, Viện thú y quốc gia,

Cục thú y, Viện công nghệ môi trường - Viện Khoa học công

nghệ Việt Nam, Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam, Hội chăn

nuôi Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu và chuyển giao TBKT

chăn nuôi, Trung tâm nghiên cứu gia cầm Vạn Phúc, Trung tâm

nghiên cứu vịt Đại Xuyên, Trạm nghiên cứu thử nghiệm thức ăn,

Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền Trung, Công

ty Tư vấn dịch vụ phát triển chăn nuôi, các bộ môn của Viện

4

Chăn nuôi, Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, các

đơn vị chăn nuôi gia cầm của Tổng Công ty chăn nuôi Việt

Nam, Công ty cổ phần Phúc Thịnh, Liên hiệp hội khoa học

Thanh Hoá, Sở khoa học công nghệ các tỉnh Hà Nội, Hải Dương,

Hưng Yên, Thái Bình, Cao Bằng, Bấc Giang, Bắc Ninh, Thanh

Hoá triển khai 7 đề tài phối hợp cấp Nhà nước, 3 đề tài độc lập

cấp Nhà nước, 2 nghị định thư, 4 dự án p cấp Nhà nước, 50 đề tài

cấp Ngành và phối hợp cấp Ngành, 5 dự án nông thôn miền núi

của Bộ Khoa học và công nghệ.

Kết quả nghiên cứu khoa học đã xây dựng được hệ thống

giống gà lông màu, gà công nghiệp, gà đặc sản, vịt chuyên thịt,

ngan Pháp, đà điểu từ dòng thuần tới ông bà, sản xuất ra bố mẹ

và con thương phẩm có ưu thế lai phục vụ sản xuất. Nhiều giống

cấp ông bà được đưa vào danh mục giống gốc như các dòng

ngan, gà LV, vịt Supermeat. Sản phẩm khoa học còn là các quy

trình chăm sóc nuôi dưỡng, chế độ dinh dưỡng cân bằng

axitamin, bổ sung các chế phẩm sinh học phù hợp với các đối

tượng và các lứa tuổi làm tăng năng suất từ 5 - 12%, quy trình ấp

trứng cùng với thiết bị mới tăng tỷ lệ nở lên 7 - 13% so với

những năm trước đây, quy trình an toàn sinh học, thú y phòng

bệnh được áp dụng trên bình diện rộng làm lợi cho sản xuất hàng

trăm tỷ đồng.

Quy trình sản xuất thịt gà an toàn chất lượng cao từ chuồng

nuôi tói bàn ăn được hoàn thiện tại hai vùng Hà Nội và Thành

phố Hồ Chí Minh. Hệ thống các số liệu đánh giá tình hình chăn

nuôi gia cầm, giết Iĩiổ, mức độ ô nhiễm môi trường ở các cơ sở

chăn nuôi, đề xuất các cơ chế chính sách giải pháp để giải quyết

những vấn đề đặt ra về môi trường khi phát triển chăn nuôi.

Trong quá trình triển khai nghiên cứu có 30 công trình được

công nhận tiến bộ kỹ thuật, đang đề nghị công nhận tiến bộ kỹ

5

thuật cho 23 công trình, nhiều công trình khoa học công nghệ

đạt giải thưởng lớn.

Nghiên cứu khoa học gắn vói sản xuất như một dòng chảy

liên tục. Trong những năm qua, Trung tâm đã bằng nhiều được

truyển như tổ chức các cuộc hội thảo, tập huấn cho cán bộ kỹ

thuật, cán bộ quản lý, người chăn nuôi, các chủ trang trại khắp

các tỉnh thành trong cả nước, phối hợp với đài truyền hình Việt

Nam tổ chức hơn 40 lượt phát sóng, gần 20 lượt phát tin trên Đài

tiếng nói Việt Nam, 52 lượt bài đăng tải trên các báo Nhân dân,

Lao động, Đầu tư, Nông nghiệp..., hàng trăm bài báo khoa học

đăng trên các tạp chí có uy tín, phối hợp vói Nhà xuất bản Nông

nghiệp, Nhà xuất bản Lao động - xã hội xuất bản 28 đầu sách kể

cả chuyên khảo và hướng dẫn kỹ thuật cùng hàng- vạn tờ gấp

phát cho các hộ chăn nuôi. Phối hợp vói hệ thống khuyến nông,

các Hội cựu chiến binh, Liên hiệp hội khoa học, Hội chăn nuôi,

Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, các doanh nghiệp, các chủ trang

trại, gia trại, chính quyền các địa phương, khắp các vùng sinh

thái như Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh, Bắc Giang, Bắc

Ninh, Hà Tây, Thanh Hoá, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Đà Nẩng,

Quảng Nam, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Đắc Lắc, Ninh

Thuận, Bình Thuận, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình

Dương, Long An, Sóc Trăng..., xây dựng nhiều mô hình chăn

nuôi gia cầm đậm nét trong sản xuất có doanh thu từ 100 triệu

đến 5 tỷ đồng/năm. Hàng năm Trung tâm cung cấp cho sản xuất

hàng trăm ngàn con giống bố mẹ để sản xuất ra hàng chục triệu

con gia cầm thương phẩm và những năm qua Trung tâm đã cấp

hàng chục triệu gia cầm thương phẩm có chất lượng cao cho sản

xuất, đã chuyển hơn 6.000 đà điểu vào 35 tỉnh thành như Cao

Bằng, Bắc Cạn, Hải Phòng, Quảng Ninh, Khánh Hoà, Đà Nẩng,

Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bắc Ninh,

6

Bắc Giang, Hà Tây..., Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào nuôi cho

kết quả tốt.

Trung tâm phối hợp với các địa phương, các doanh nghiệp,

các chủ trang trại xây dựng nhiều dự án phát triển chăn nuôi thu

hút hàng trăm tỷ đồng vào sản xuất như Tổng công ty Khataco

Khánh Hoà, Công ty Minh Hung Đà Nẵng, Dahaco Bắc Ninh,

Trại ngan giống Bắc Giang, cơ sở sản xuất giống gia cầm Bắc

Ninh, Công ty Quang Việt, Công ty xây dựng Cao Bằng, Tổng

công ty đóng tàu Nam Triệu, Công ty TNHH Đồng Phú Hưng

thành phố Hồ Chí Minh...

Kết quả nghiên cứu đã thực sự thúc đẩy sản xuất và đón

trước sản xuất, đóng góp tích cực cho việc chuyển dịch cơ cấu

cây trồng vật nuôi, tăng thu nhập cho người nông dân, xoá đói

giảm nghèo cho đồng bào vùng sâu vùng xa, vùng phên dậu của

đất nước.

Kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu và sản xuất làm

căn cứ thực tiễn cho Bộ Nông nghiệp và PTNT phê duyệt các dự

án “Giống gà năng suất, chất lượng cao”; dự án “Nâng cao năng

suất giống vịt, ngan”. Nhờ có kết quả nghiên cứu và chuyển giao

vào sản xuất tạo động lực quan trọng cho ngành chăn nuôi gia

cầm phát triển, nên từ một Trung tâm ít người biết, đến nay là

địa chỉ tin cậy của hàng chục triệu nông dân từ miền núi phía

Bắc tới đồng bằng sông Hồng, duyên hải miền Trung, Đông

Nam Bộ, thành phố Hồ Chí Minh, đổng bằng sông Cửu Long.

Hợp tác quốc tế trong những năm gần đây được sự quan tâm

của Viện Chăn nuôi, Trung tâm đã tham gia các đề tài trong dự

án Biodiva, điều tra đánh giá ảnh hưởng của dịch cúm do Canada

hỗ trợ, hợp tác với Cuba về cá sấu, cộng hoà dân chủ nhân dân

Lào về chăn nuôi gia cầm và đà điểu, thực hiện nghị định thư vứi

Hungary về gà tây, gà Sao, với Grimaud Freres Cộng hoà Pháp

7

về gà lồng màu, ngan, vịt Star; với Ân Độ về gà Marshall; với

Trung Quốc về gà lông màu, đà điểu....

Đồng thời với việc đẩy mạnh nghiên cứu và chuyển giao tiến

bộ kỹ thuật, cơ sở vật chất, trang thiết bị cũng được củng cố và

mở rộng. Từ một trại nghiên cứu gia cầm xây dựng lạc hậu

xuống cấp, diện tích nhỏ, trang thiết bị hầu như không có gì đến

nay Trung tâm đã có Trạm nghiên cứu đà điểu Ba Vì vói hệ

thống chuồng trại tương đối đồng bộ cho việc triển khai các đề

tài dự án. Tại Thụy Phương, cơ sở vật chất được củng cố từ khu

hành chính đến các chuồng nuôi. Trạm nghiên cứu gia cầm cẩm

Bình đang được quy hoạch và xây mới nhiều hạng mục công

trình tạo nên một diện mạo mói đúng với tiềm năng sẵn có. Để

tăng cường hơn nữa cơ sở vật chất, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã

giao Trung tâm triển khai 2 dự án: “Phát triển giống gà năng

suất, chất lượng cao giai đoạn 2006 - 2010”. Xây dựng trại giống

gà ông bà vói quy mô 13.000 mái sinh sản trên diện tích 35,4 ha

tại Phổ Yên, Thái Nguyên; Dự án: “Cải tiến nâng cao chất lượng

vịt, ngan giai đoạn 2006 - 2010” đang được triển khai tại cẩm

Giàng, Hải Dương. Để hoàn thiện và khép kúi từ nghiên cứu đến

sản xuất, Bộ Khoa học và công nghệ giao cho Trung tâm triển

khai dự án nông thôn miền núi tại Hải Dương vói nội dung quan

trọng là xây dựng một nhà máy giết mổ với trang thiết bị hiện

đại tại Lương Điền, cẩm Giàng. Trung tâm sẽ triển khai Trạm

chuyển giao tiến bộ kỹ thuật tại Hàm Thuận Nam - tỉnh Bình

Thuận vào đầu năm 2008.

Thực hiện quyết định 705 ngày 16 tháng 3 năm 2007 của Bộ

Nông nghiệp và PTNT về việc phê duyệt đề án chuyển đổi Trung

tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương sang hoạt động theo cơ chế

tự trang trải kinh phí quy định tại Nghị định 115/2005/NĐ - CP

8

của Chính phủ, Trung tam sẽ thành lập Công ty cổ phần dịch vụ

thương mại và phát triển chăn nuôi trong thời gian tới.

Trang thiết bị điều kiện làm việc cho cán bộ khoa học, công

nhân viên cũng được thay đổi, hệ thống máy tính kết nối thông

tin khu vực và thế giới thường xuyên. Hộ thống chuồng trại và

trang thiết bị đồng bộ được lắp đặt ở các cơ sở giảm bớt sức lực

của người lao động vừa nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm

vừa hạ giá thành, tạo sức cạnh tranh mạnh trên thị trường. Các

thiết bị nghiên cứu hiện đại phục vụ cho nghiên cứu tế bào gốc,

protein dược liệu cũng được trang bị và sử dụng có hiệu quả.

Trong quá trình hình thành và phát triển, Trung tâm luôn coi

đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ vừa là động lực vừa là

mục tiêu. Chính vì vậy trong nhiều năm qua đã tập trung các

nguồn lực cho công tác đào tạo đại học và sau đại học từ hơn 20

kỹ sư khi mới thành lập đến nay đã có đội ngũ hơn 100 cán bộ

đại học và trên đại học, trong đó có 9 tiến sỹ, 26 thạc sỹ, 7

nghiên cứu sinh, 9 học viên cao học. Đội ngũ cán bộ công nhân

viên từ 81 người năm 1989 lên gần 300 người năm 2007. Do có

lực lượng cán bộ công nhân viên được đào tạo chuyên sâu nên đã

thường xuyên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Ngoài việc đào tạo đội ngũ cán bộ cho sự phát triển của đơn

vị, Trung tâm còn phối hợp với các Viện: Viện Dinh dưỡng,

Viện công nghệ và thực phẩm, các trường: Đại học Bách Khoa

Hà Nội, Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, Đại học Nông lâm Thái

Nguyên, Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học quốc gia Hà Nội,

Đại học sư phạm I Hà Nội, Đại học Hồng Đức Thanh Hoá, Cao

đẳng nông lâm Hà Bắc, Cao đẳng nông nghiệp Hà Nội, Cao đẳng

nông nghiệp Hà Tây, Cao đẳng nông nghiệp Nam Định hướng

dẫn luận văn cao học, thực tập tốt nghiệp và chuyên đề cho hàng

trăm sinh viên.

9

Với quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, để nấm bắt được

công nghệ tiên tiến, tranh thủ sự ủng hộ của nước ngoài, Trung

tâm đã cử hơn 70 lượt cán bộ đi tham quan học tập tại nhiều

quốc gia và lãnh thổ như Mỹ, úc, Nhật Bản, Pháp, Hungary,

Italia, Malaysia, Xingapo, Cộng hoà Sec, Nam Phi, Cu Ba, Trung

Quốc, Ẩn Độ, Lào, Campuchia, Đan Mạch, Hà Lan, Thái Lan,

Đài L oan￾Trung tâm là đơn vị đầu tiên được Bộ Nông nghiệp và PTNT

phê duyệt đề án chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách

nhiệm theo Nghị định 115/2005/NĐ - CP của Chính phủ. Đây là

thách thức nhưng cũng là cơ hội để Trung tâm định hướng cho

các hoạt động tạo đà phát triển những năm tới.

Liên tục trong nhiều năm qua, Trung tâm thường xuyên

quan tâm chăm lo tói đời sống việc làm của người lao động, mặc

dù hơn 4 năm qua phải đứng trước những khó khăn gay gắt

nhưng đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ công nhân viên

không ngừng nâng cao tạo sự phấn khỏi trong toàn Trung tâm.

Các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể được củng cố lớn

mạnh không ngừng, có hai chi bộ vói gần 40 đảng viên, gương

mẫu đi đầu trong các hoạt động, 3 chi đoàn vói hơn 70 đoàn viên

là lực lượng xung kích trong nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ

kỹ thuật, tập thể nữ chiếm 67% toàn Trung tâm là bộ phận quan

trọng cấu thành sức mạnh của Trung tâm. Các nhà khoa học nữ

đã được nhiều giải thưởng lớn. Cá nhân TS. Bạch Thị Thanh Dân

là một trong 8 tập thể và cá nhân được vinh danh vinh quang

Việt Nam năm 2007; công đoàn Trung tâm được khen thưởng

nhiều lần với hàng chục công đoàn viên tiên tiến, xuất sắc được

nhận bằng khen, giấy khen của Tổng liên đoàn lao động Việt

Nam và công đoàn ngành nông nghiệp.

10

Trong quá trình hình thành và phát triển, nhiều thời điểm

Trung tâm đã vượt qua những khó khăn, thách thức, đặc hiệt giai

đoạn từ cuối 2003 đến nay do ảnh hưởng dịch cúm gia cầm và

thay đổi cơ chế hoạt động nhưng Trung tâm vẫn đứng vững, đổi

mói và đi lên trở thành một Trung tâm lớn nhất trong cả nước về

nghiên cứu gia cầm, có những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành chăn nuôi nói chung và chăn

nuôi gia cầm nói riêng. Với những thành tích đạt được, tập thể và

cá nhân của Trung tâm đã được Đảng và Nhà nước trao tặng 02

Huân chương lao động hạng H, 04 huân chương lao động hạng m ,

04 bằng khen của thủ tướng chính phủ, 01 cờ thi đua của Bộ Nông

nghiệp và PTNT, 10 giải thưởng Bông lúa vàng và 02 huy chương

tuổi trẻ vói sự nghiệp khoa học công nghệ, 09 huy chương vì Sự

nghiệp xanh, 03 cúp vàng vì, Sự nghiệp xanh, 11 cúp vàng nông

nghiệp, 26 huy chương vì sự nghiệp phát triển nông nghiệp, 30

bằng lao động sáng tạo, 01 giải thưởng mai vàng hội nhập, tập thể

cán bộ nữ khoa học được nhận giải thưởng Kovalevskaia, thương

hiệu ban nhà nông Việt Nam năm 2005 giải thưởng nhà nước về

khoa học công nghệ, giải thưởng Vifotex và nhiều bằng khen và

giải thưởng khác. Ngày 13 tháng 3 năm 2007, Chủ tịch nước ký

quyết định số 253/2007/QĐ - C ĨN tặng thưởng huân chương lao

động hạng nhất cho Trung tâm.

Nhìn lại chặng đường đã qua với bao thăng trầm và phát

triển, tuy nhiên trên đây mới chỉ là bước đầu. Những năm tói,

đặc biệt từ nay đến 2010, trong tiến trình hội nhập ngày càng

sâu, đổi mới cơ chế hoạt động, đứng trước những thách thức

không nhỏ nhưng cũng có những vận hội mới. Để góp phần đẩy

mạnh phát triển chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia cầm nói

riêng, Trung tâm sẽ tập trung các nguồn lực triển khai tốt các đề

11

tài khoa học tạo các sản phẩm theo hướng hàng hoá khép kín, có

sức cạnh tranh mạnh, phối hợp với các tổ chức, cá nhân, các địa

phương chuyển tải nhanh kết quả vào sản xuất để xứng đáng hơn

nữa vói niềm tin của hàng chục triệu nông dân trong cả nước.

Đẩy nhanh hơn nữa việc củng cố xây dựng cơ sở vật chất trang

thiết bị, chủ động đứng vững và phát triển khi chuyển sang cơ

chế mới, mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp tục phối hợp vói các

trường, các Viện đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ. Triển khai

các dự án đúng tiến độ, mở rộng sản xuất kinh doanh. Không

ngừng chăm lo nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên,

tiếp tục tăng cường và củng cố các tổ chức đảng, chính quyền và

các đoàn thể xã hội, phấn đấu từ nay đến 2010 Trung tâm có

diện mạo mói đóng góp tích cực hơn cho việc chuyển dịch cơ

cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn.

12

CHĂN NUÔI GIA CẦM ỏ Nước TA

TS. Phùng Đức Tiến, ThS. Hoàng Văn Lộc,

TS. Nguyễn Quý Khiêm

I. THỰC TRẠNG CHĂN NUÔI GIA CẦM Ở NƯỚC TA

1. Những kết quả đạt được

Sau 20 năm đổi mới, chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia

cầm nói riêng có tốc độ tâng trưởng nhanh và bền vững vói giá

trị sản xuất lón. Ngành chăn nuôi đạt 9059,8 tỷ đồng năm 1986

và tăng lên 21.199,7 tỷ đồng năm 2002, năm 2006 đạt 48.654,5

tỷ đồng chiếm 24,7% giá trị sản xuất nông nghiệp. Chăn nuôi

gia cầm có giá trị sản xuất 1.701 tỷ đồng năm 1986 tăng lên

3.712,8 tỷ đồng năm 2002, năm 2006 đạt 9.244,3 tỷ đồng chiếm

19% trong chăn nuôi. Như vậy, chăn nuôi gia cầm chỉ đứng sau

chăn nuôi lợn, có vai trò quan trọng trong nông nghiệp và kinh tế

nông thôn.

Tổng đàn gia cầm 1986 có 99,9 triệu con, đến 2003 đạt 254

triệu con (gà 185 triệu con; vịt, ngan, ngỗng 69 triệu con), tốc độ

tăng đầu con bình quân 7,85%/năm. Trong đó số lượng đàn gà

thời gian 1990 - 2003 tăng từ 80,18 triệu con lên 185 triệu con,

tốc độ tăng bình quân 7,7%/năm. Từ năm 2003 do ảnh hưởng

dịch cúm số lượng đầu con có giảm. Năm 2006 tổng đàn gia cầm

đạt 214,6 triệu con trong đó gà 152 triệu con, thuỷ cầm 62,6

triệu con. Một số vùng kinh tế sinh thái có số lượng gia cầm lớn

như: vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Bắc bộ là hai vùng có

số lượng gia cầm lớn nhất tương ứng 58,4 và 42,5 triệu con;

13

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!