Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Ky sinh trung
MIỄN PHÍ
Số trang
59
Kích thước
365.1 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1914

Ky sinh trung

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Báo cáo tốt nghiệp Hoàng

Văn Dũng - K46

PHẦN I

MỞ ĐẦU

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Nước ta là một nước nông nghiệp, lạc hậu. Nhưng nền kinh tế nông

nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ thu nhập khá cao trong kinh tế quốc dân (43-44%).

Những năm gần đây, ngành Nông nghiệp nước ta đã có những bước đột phá,

từ thiếu sang đủ, từ đủ tiến tới thừa, làm cho đời sống nhân dân được nâng

cao. Trong Nông nghiệp ngành chăn nuôi cũng đã và đang góp phần quan

trọng vào sự phát triển đó .

Từ xưa đến nay vốn là đầu cơ nghiệp, trâu- bò đã có sự gắn bó mật

thiết với người nông dân, cung cấp sức kéo-phân bón cho nông nghiệp, còn

làm nguyên vật liệu cho các ngành thuộc da và kỹ nghệ: da, sừng,

móng...cung cấp thực phẩm: thịt, sữa. Những năm gần đây chúng ta đã tiến

hành nhập khẩu nhiều giống ngoại có năng suất chất lượng cao bảo đảm cung

cấp sản phẩm cho thị trường trong nước và xuất khẩu nâng cao được năng

suất cho người nông dân góp phần đẩy mạnh sự phát triển nền kinh tế nước

nhà. Đồng thời các cơ quan nghiên cứu Chăn nuôi - Thú y cũng bảo tồn duy

trì những gen quý của giống nội. Tuy vậy nhưng do người nông dân là những

người không được đào tạo cơ bản về chăn nuôi - Thú y, cho nên công tác

phòng chống bệnh - dịch gặp rất nhiều khó khăn, trong đó những bệnh phổ

biến thường xuyên xảy ra là bệnh Kí sinh trùng, bệnh này đã gây ra rất nhiều

thiệt hại cho người chăn nuôi, ví dụ : như tiêm mao trùng gây chết hàng loạt,

các bệnh khác như Sán-giun làm giảm tốc độ sinh trưởng gia súc gây còi cọc,

giảm sức đề kháng. Ngoài ra Kí sinh trùng còn tạo điều kiện cho các vi sinh

vật xâm nhập sau đó là các bệnh truyền nhiễm kí sinh kế phát lưu hành.

Xuất phát từ thực tế đó và được sự giúp đỡ của các thày trong bộ môn

KST- KNTS - VSTY đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Phan Lục

1

Báo cáo tốt nghiệp Hoàng

Văn Dũng - K46

cũng như sự giúp đỡ của một số lò mổ xung quang Hà Nội chúng tôi tiến

hành nghiên cứu đề tài:

“Ký sinh trùng chủ yếu của Trâu ở một số lò mổ xung quanh Hà Nội.

Đặc điểm của Sarcocystis và thuốc điều trị.”

II- MỤC ĐÍCH ĐỀ TÀI

- Điều tra tình hình nhiễm những kí sinh trùng chủ yếu của Trâu. Ở một

số lò mổ xung quanh Hà Nội.

+Xác định tỷ lệ nhiễm KST theo lớp

+Thành phần KST chủ yếu ở Trâu

+Biến động nhiễm KST theo tuổi Trâu

+Biến động nhiễm KST theo các vùng nuôi trâu.

- Xác định một số đặc điểm của Sarcocystis.

- Đề xuất biện pháp phòng trị bệnh.

2

Báo cáo tốt nghiệp Hoàng

Văn Dũng - K46

PHẦN II

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ SÁN LÁ GAN (FASCIOLA)

2.1.1. Những nghiên cứu về sán lá gan trên Thế Giới.

Trên Thế giới việc nghiên cứu về kí sinh trùng đã có từ lâu. Và đã được

được đề cập trong kinh thánh Ai Cập (Ebersa.1550 TCN) về sán dây, giun

đũa. Ban đầu việc nghiên cứu chủ yếu bằng trực quan và đã xác định được

sán lá (từ thế kỷXIII và nửa đầu thế kỷ XIX) Giai đoạn này người ta xác

định được một số kí sinh trùng của người và gia súc. Năm 1808 Rudolphi xác

định được lớp sán lá (Trematoda ) đến năm 1885 thì Owen đặt tên là

Recholaria tiếp đó tác giả Carus đặt tên cho lớp này là Dienia vào năm 1863.

Đến năm 1964 Erchov gọi là Trematoides năm 1970 Schulz và Gvozdes đã

mô tả hình dạng kích thước màu sắc các giác bám vỏ ngoài như mô, hệ thống

cơ các hệ thống tiêu hoá, bài tiết, thần kinh, sinh dục...

Sau thời kì xác định trực tiếp bằng mắt thường là thời kì phân loại, thời

kỳ này kéo dài từ thế kỷ XVII - XIX người đầu tiên phân loại sán lá gan là

Linnaca, ông chia sán lá thành hai nhóm vào năm 1758, sau đó vào năm 1863

Duraclinchia chia lớp sán lá thành 5 nhóm: Octobothriens, Tritoniens,

Distoniens( trong nhóm Distoniens lại gồm Aspidogaster, Amphistoma,

Monotona, Holostomun, Distoma) Monogeneses và Digeneses . Đến lượt

Carus lại chia sán lá thành hai nhóm là Monogenea và Digennea.

Johan De Brie là người đầu tiên phát hiện và mô tả sán lá gan loài F.

hepatica, vào năm 1379 sau đó năm 1752 Swammerdam phát hiện được vĩ ấu

(Cercoria) của sán lá gan trong loài ốc Gaearopoda. Năm 1882 Thomas ở Anh

và Leukart ở Đức cùng lúc đã đồng thời xác định vòng đời phát triển của loài

F.hepica ở nhiêt độ khống chế 10 - 19o

c thì sau 14 - 16 ngày trứng nở ở nhiệt

độ 25 - 30o

c thì tỷ lệ trứng nở từ 70 - 80%.

3

Báo cáo tốt nghiệp Hoàng

Văn Dũng - K46

Một số tác giả nghiên cứu về vòng đời sán lá gan : Krull(1934)

Swles(1935) Cumaron và Swalls(1963)

Về đường di hành của ấu trùng sán lá gan: Kennth(1949),

Taylor(1968), Hansen và Peri(1994) đã cho biết con đường di hành của chúng

là chui qua thành bụng vào xoang bụng. Tác giả đã theo dõi sau 24h đã thấy

sán non trong xoang bụng.

Năm 1961 - Erhardofva đã xác định được vật chủ trung gian của sán lá

gan loài nhai lại tại vùng bắc Mỹ là loài ốc Ganbatracatula. ở Pakistan sự

cảm nhiễm F.giantica thường xảy ra nhiều nhất sau đợt gió mùa (Yasin 1958)

khi nước lụt làm cho vĩ ấu phát triển nhiều nhất sau đợt gió mùa ( tháng 1- 2)

khi thiiêú thức ăn gia súc phải ăn cỏ ở nơi đầm lầy nước đọng mà ở đó lại có

rất nhiều lang ấu tồn tại từ trước.

Dun và Dinnik ( 1959- 1978) phát hiện trong thiên nhiên một ốc nhiễm

từ 126 - 415 ấu trùng và với số lượng như vậy nó gấp 5- 7 lần so với gây

nhiễm thực nghiệm. ở t0<160

c lôi ấu( Redia) chỉ sinh ra Redi I rồi ngừng phát

triển ( không gây nhiễm được).

Năm 1968 Sumakovich đã xác định vòng đời sán lá gan và nó phát

triển theo 4 giai đoạn chính: Trứng  ấu trùng  kén, ở gian đoạn kén khi

gặp vật chủ cuối cùng sẽ phát triển thành dạng trưởng thành. Theo

Skeman( 1956) thì vòng đời của sán lá gan khoảng 92 - 117 ngày. Năm 1985

Tay và Geogi nghiên cứu về Faciola ở châu Mỹ thấy rằng F.giantica có dịch

hoàn phân nhánh mạnh.

Năm 1994, theo Hansen và perri nghiên cứu tình hình nhiễm sán lá ở

trâu bò và tác hại của chúng gây ra cho chăn nuôi tại một số nước đang phát

triển ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mĩ cho biết: Lớp Trematoda ký sinh ở gan

gồm F.giantica và F.hepatica. F.hepatica dài từ 18 - 51 mm rộng từ 4 - 13 mm

thân dẹp hình lá màu nâu nhạt. Phần đầu hình nón dài từ 3 - 4 mm có hai giác

bám là giác bụng và giác miệng trong đó giác bụng lớn hơn giác miệng, thân

to rồi thon nhỏ về phía cuối tại vai rõ rệt. Trứng hình elíp hai đầu hơi giống

4

Báo cáo tốt nghiệp Hoàng

Văn Dũng - K46

nhau, hai bên đối xứng, vỏ mỏng, phôi bào màu vàng hơi nâu và chứa đầy

trong trứng. Kích thước trứng 0,13 - 0,145 x 0,07 - 0,09 mm.

Tác giả Sumakovich(1968) đã cho biết Fasciola nói chung phải qua hai

vật thể ( vật chủ trung gian và vật chủ cuối cùng) ở ngoài môi trường là quá

trình hoặc giai đoạn phát triển của ấu trùng, khi phát triển thành nang ấu

( Adolescaria) lại ở ngoài môi trường. Vật chủ trung gian sẽ có vai trò

khuyếch tán mầm bệnh làm tăng số lượng mầm bệnh. Gia súc bị nhiễm sán lá

gan phụ thuộc vào mùa vụ trong năm.

Về diều trị: Từ trước tới nay người ta sử dụng nhiều loại hoá dược như

Tetraclorua ( CCl4): 4 -5 ml/100kgP; Hecxacloethan; Dertil - B - mg/kgP.

Năm 1983 Smed và Hallcho biết: Fascinesex liều 10mg/kgP hiệu lực đạt tới

99% đồng thời có tác dụng chống lại các giai đoạn sống của sán lá gan từ 1 -

12 tuần tuổi .

2.1.2. Nghiên cứu sán lá gan ở Việt Nam.

Từ xưa đất nước ta đã có những lương y giỏi như : Lương Y Lương

Tuệ Tĩnh thế kỷ XIV đã viết : “ Muôn loài trên trái đất có 4 cách sinh sản là:

thai sinh (đẻ ra con), noãn sinh (đẻ ra trứng) Thuỷ sinh hay thấp sinh (đẻ dưới

nước) và hoá sinh (hoá ra con) giun sán là loại hoá sinh “ . ở giai đoạn này

đó là giai đoạn tiến bộ và có ý thức.

Trước năm 1945, các nhà làm công tác thú y tại Việt Nam đã thu thập,

phát hiện để lại những hiểu biết về giun sán thú y tại các bệnh xá thú y, các

phòng thú nghiệm hay các lò sát sinh lớn ở các thành phố như Hà Nội, Hải

Phòng, Sài Gòn... Nhưng họ mới chỉ nghiên cứu chung trên đối tượng là vật

nuôi hoặc đại gia súc mà chưa đi sâu nghiên cứu từng loại giun sán trên từng

đối tượng riêng biệt. Đã có một số tác giả từng nghiên cứu về sán lá gan ở

Việt Nam : Giard Billet(1892)

GoMy(1896-1897) Bauche (1914) Lagrange(1923) Raillet(1925) Phan Huy

Quát, Đặng Văn Ngữ(1936) và Houdermer(1938) .

5

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!