Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Khảo sát các biểu thức chiếu vật về người phụ nữ trong ngôn ngữ thơ hồ xuân hương và thơ xuân quỳnh
PREMIUM
Số trang
166
Kích thước
1.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1760

Khảo sát các biểu thức chiếu vật về người phụ nữ trong ngôn ngữ thơ hồ xuân hương và thơ xuân quỳnh

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐÀ NẴNG

LÊ THỊ MỸ HẠNH

KHẢO SÁT CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT

VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG NGÔN NGỮ THƠ

HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ THƠ XUÂN QUỲNH

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Mã số: 60.22.02.40

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ HỌC

ĐÀ NẴNG - NĂM 2017

Công trình được hoàn thành tại

Trường Đại học Sư phạm-ĐHĐN

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Sáng

Phản biện 1: PGS.TS. Võ Xuân Hào

Phản biện 2: TS. Bùi Trọng Ngoãn

Luận văn đã được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn

tốt nghiệp thạc sĩ ngành Ngôn ngữ học họp tại trường Đại học Sư

phạm - ĐHĐN vào ngày 30 tháng 9 năm 2017.

Có thể tìm hiểu luận văn tại:

- Trung tâm Thông tin-Học liệu, Đại học Đà Nẵng

- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng

24

có cấu tạo chiếm ưu thế nhất, khác với trong thơ Xuân Quỳnh thì các

danh từ làm BTCV lại chiếm đa số.

Về quan hệ kết hợp, ở cấp độ cụm từ, thơ Hồ Xuân Hương sử

dụng nhiều các cụm từ cố định (thành ngữ, quán ngữ …), còn trong

thơ Xuân Quỳnh chủ yếu là cụm từ tự do (32.73%). Các BTCV đảm

nhiệm làm thành phố phụ trong cấu tạo của các ngữ danh từ là chủ

yếu. Ở cấp độ câu, các BTCV làm thành phần chủ ngữ chiếm tỷ lệ

cao (Thơ Hồ Xuân Hương chiếm 53,71%, Thơ Xuân Quỳnh:

75,51%) so với các thành phần còn lại. Khi làm chủ ngữ, các BTCV

cả trong thơ Hồ Xuân Hương và Xuân Quỳnh kết hợp đa dạng với

các loại vị từ làm trung tâm vị ngữ, như: trạng thái tồn tại, trạng thái

tâm lý, đặc điểm, tính chất, nói năng…

3. Trên bình diện cái được biểu đạt, luận văn đã phân lập được

3 nhóm HQC khác nhau của các BTCV về người phụ nữ, đó là: Chiếu

vật về người phụ nữ trên hệ quy chiếu thế giới tự nhiên; Chiếu vật về

người phụ nữ trên hệ quy chiếu thế giới nhân tạo; Chiếu vật về người

phụ nữ trên hệ quy chiếu thế giới con người.

Trong thơ Hồ Xuân Hương, chiếm tỷ lệ cao nhất là HQC con

người (79.15%) và HQC thiên nhiên (73.89%). Ở thơ Xuân Quỳnh,

HQC về thiên nhiên chiếm tỷ lệ cao nhất (36.1%) so với 2 HQC còn lại.

Trên HQC thiên nhiên, thơ Hồ Xuân Hương viết về thiên nhiên thật đậm

đà, thắm thiết với cảnh vật non sông đất nước, cho thấy toát lên vẻ đẹp

của người phụ nữ. họ là những người phụ nữ bình thường nhất, sống với

những khao khát, những bản năng rất con người và rất đàn bà. Thấu hiểu

được điều này bà đã thổi hồn vào những vần thơ Nôm viết về thiên

nhiên làm cho thiên nhiên ấy sống động, đầy nữ tính.

4. Từ các kết quả khảo sát, miêu tả, phân tích và so sánh trên

hai bình diện cái biểu đạt và cái được biểu đạt của các BTCV, luận

văn của chúng tôi cũng chỉ ra vai trò, giá trị cơ bản của các BTCV đó

trong thơ Hồ Xuân Hương và Xuân Quỳnh đối với việc xây dựng

khắc họa hình tượng người phụ nữ.

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Luận văn của chúng tôi tìm hiểu về các yếu tố ngôn ngữ, tức

các biểu thức chiếu vật, dưới ánh sáng của lý thuyết chiếu vật của

ngữ dụng học: đặt chúng trong các biểu thức chiếu vật được sử dụng

trong diễn ngôn. Việc nghiên cứu về thi pháp-ngôn ngữ của hai nhà

thơ này cũng có rất nhiều cách tiếp cận. Do đó, nghiên cứu, khảo sát

các biểu thức chiếu vật về người phụ nữ trong ngôn ngữ thơ Hồ Xuân

Hương và thơ Xuân Quỳnh là hướng tiếp cận hoàn toàn mới và có

tính khoa học, thực tiễn cao.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Đỗ Hữu Châu là người đầu tiên có công giới thuyết lý thuyết

ngữ dụng học một cách hệ thống và đầy đủ nhất và tiêu biểu nhất ở

Việt Nam. Cuốn Đại cương ngôn ngữ học, tập 2: Ngữ dụng học-Đỗ

Hữu Châu đã dành trọn một chương đề cập đến chiếu vật và chỉ xuất.

Nguyễn Thiện Giáp cũng đã dành một phần nghiên cứu về lý thuyết

chiếu vật xem đó là một nhân tố, một phương châm trong hoạt động

giao tiếp và quy chiếu được hiểu là hành động trong đó người nói và

người đọc nhận diện một cái gì đó.

Tài liệu nước ngoài được tiếp nhận và giới thiệu sớm nhất ở

Việt Nam có lẽ là công trình Dụng học của G.Yule do Diệp Quang

Ban biên dịch. Đây là một trong những giáo trình quan trọng về ngữ

dụng học, đề cập ngắn gọn những đầy đủ về lý thuyết dụng học,

trong đó có lý thuyết chiếu vật. Đặc biệt, cho đến nay, chúng tôi có

thể khẳng định chưa có một công trình nào nghiên cứu về các biểu

thức chiếu vật về hình tượng người phụ nữ trong ngôn ngữ thơ Hồ

Xuân Hương và thơ Xuân Quỳnh như đề tài của chúng tôi.

3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

2

Luận văn cố gắng làm rõ mối quan hệ giữa các các biểu thức

chiếu vật với ý nghĩa biểu trưng của chúng gắn với từng hệ quy chiếu

khác nhau cũng như với những đặc trưng văn hóa dân tộc và quan

điểm xã hội, cách nhìn của hai tác giả về người phụ nữ trong hai thời

đại khác nhau.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn

Xác lập các tiêu chí để xác định và phân loại các biểu thức

chiếu vật về người phụ nữ cũng như đối tượng được quy chiếu của

chúng trong ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và Quân Quỳnh; Phân

tích, miêu tả đặc điểm của các biểu thức chiếu vật được khảo sát trên

bình diện cái biểu đạt và cái được biểu đạt; tìm hiểu, so sánh các đặc

điểm của các biểu thức chiếu vật trong thơ Hồ Xuân Hương và thơ

Xuân Quỳnh; Phân tích, so sánh giá trị biểu đạt của các biểu thức

chiếu vật theo hệ quy chiếu đối với việc thể hiện ý nghĩa biểu trưng

của chúng trong ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và Xuân Quỳnh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: các biểu thức chiếu vật về người phụ

nữ trong ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ Xuân Quỳnh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về phương diện nghiên cứu: luận văn tiến hành khảo sát và

nghiên cứu đối tượng kể trên ở các phương diện: cấu tạo, quan hệ kết

hợp với các yếu tố ngôn ngữ khác trong ngôn cảnh, sự vật được quy

chiếu trong ngữ cảnh sử dụng và so sánh chúng với các biểu thức chiếu

vật về phụ nữ tương ứng trong thơ Hồ Xuân Hương và thơ Xuân Quỳnh.

Về tư liệu khảo sát: luận văn chỉ khảo sát trên thơ Nôm truyền

tụng, thơ chữ Nôm trong “Lưu Hương ký” của Hồ Xuân Hương và thơ

Xuân Quỳnh các tuyển tập sau: Tuyển tập thơ Xuân Quỳnh: Không

bao giờ là cuối, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội (2011) và Thơ Hồ Xuân

Hương, NXB Thời Đại, Minh Vy và Vương Tâm sưu tầm (2012).

5. Phương pháp và thủ pháp nghiên cứu

5.1. Thủ pháp thống kê, phân loại: Được chúng tôi vận

dụng để thống kê các biểu thức chiếu vật hình tượng người phụ nữ

23

để thổ lộ tâm tình nhưng không có một nhà thơ nào lại thể hiện tình

yêu mãnh liệt của mình qua thơ như Xuân Quỳnh.

b. Các biểu thức chiếu vật về người phụ nữ phản ánh điểm

nhìn nghệ thuật của tác giả:

* Quan niệm về tình yêu của người phụ nữ:

* Quan niệm về vẻ đẹp ngoại hình của người phụ nữ:

* Quan niệm về tính cách, phẩm chất của người phụ nữ

* Quan niệm về thân phận của người phụ nữ

3.4. TIỂU KẾT

KẾT LUẬN

Nghiên cứu và thực hiện đề tài “Khảo sát các biểu thức chiếu

vật về người phụ nữ trong ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ

Xuân Quỳnh”, chúng tôi đi đến một số kết luận sau đây:

1. Việc khảo sát trong luận văn dựa trên việc vận dụng những

khái niệm cơ bản của lý thuyết chiếu vật và lý thuyết hoạt động giao

tiếp, làm rõ các khái niệm: BTCV, CV và HQC. Theo đó, chúng tôi

nhìn nhận mỗi BTCV tồn tại trong hoạt động giao tiếp với tư cách là

một loại tín hiệu ngôn ngữ, vì thế bất cứ BTCV nào cũng có có tính

hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt.

Phần khảo sát, chúng tôi đã thống kê, phân loại 619 BTCV (121

BTCV trong thơ Hồ Xuân Hương; 498 BTCV trong thơ Xuân Quỳnh)

và trình bày trong tổng số 17 bảng số liệu và 3 biểu đồ so sánh.

2. Trên bình diện cái biểu đạt, các BTCV về người phụ nữ

trong ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ Xuân Quỳnh có những đặc

điểm chính sau:

Về cấu tạo, trong thơ Hồ Xuân Hương có 3 kiểu cấu tạo là

danh từ, ngữ danh từ và quan hệ ở cấp độ câu, cụm từ và quan hệ kết

cấu sóng đôi; trong đó, BTCV có kiểu cấu tạo ngữ danh từ và danh từ

22

3.3.1. Điểm tương đồng

a. Các biểu thức chiếu vật với việc xây dựng và khắc họa

hình tượng người phụ nữ

Điểm chung trong thơ của họ đó là tiếng nói thật lòng của

người phụ nữ dám yêu, dám sống hết mình, dám nói thật lòng mình

với tình yêu, với cảm xúc, vẫn rung động trước cảnh đẹp, vẫn thương

cảm trước nỗi đau của những người khác.

b. Các biểu thức chiếu vật về người phụ nữ với việc phản

ánh đặc trưng văn hóa dân tộc

Từ khảo sát các BTCV về người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân

Hương và Xuân Quỳnh, chúng tôi nhận thấy ảnh hưởng tín ngưỡng

dân gian “Thờ Mẫu” đã xuất hiện từ rất sớm trong đời sống văn hóa

của người Việt, có nguồn gốc sâu xa từ chế độ mẫu hệ, khi người mẹ,

người vợ giữ vị trí quan trọng trong gia đình. Trong văn học, hình

tượng người phụ nữ mang đến cho bạn đọc cảm giác khác nhau thông

qua những tác phẩm khác nhau, tập trung làm nổi bật hình tượng

người phụ nữ với số phận bất hạnh nhưng ẩn sâu những vẻ đẹp tâm

hồn của người phụ nữ Việt Nam với khát khao hạnh phúc mãnh liệt.

3.3.2. Điểm khác biệt

a. Các biểu thức chiếu vật về người phụ nữ phản ánh quan

điểm của xã hội qua từng thời đại khác nhau

* Quan điểm của xã hội cũ trong thời đại Hồ Xuân Hương

Người phụ nữ trong thơ Xuân Hương nói riêng và trong xã

hội phong kiến nói chung đều là những con người với số phận bi đát,

phải chịu nhiều khổ cực, tủi nhục, hiu quạnh, tình duyên hẩm hiu,

trắc trở.

* Quan điểm của xã hội hiện đại trong thời đại của Xuân Quỳnh

Thời đại Xuân Quỳnh là thời đại mà người phụ nữ được tự

do sống, tự do yêu như một quyền lợi mà họ được hưởng. Có rất

nhiều nhà thơ nữ cùng thời với Xuân Quỳnh, hầu hết các chị làm thơ

3

trong thơ Hồ Xuân Hương và thơ Xuân Quỳnh; phân loại các biểu

thức chiếu vật thống kê được theo những tiêu chí cụ thể.

5.2. Phương pháp miêu tả ngôn ngữ: Sau khi thống kê,

phân loại; phân tích, miêu tả đặc điểm cấu tạo các biểu thức chiếu vật

về người phụ nữ và đưa ra những nhận xét, đánh giá với các thủ pháp

nghiên cứu sau: thủ pháp phân tích thành tố trực tiếp, thủ pháp phân

tích vị từ-tham thể (vị tố-tham thể), thủ pháp phân tích ngôn cảnh/văn

cảnh và thủ pháp phân tích vai nghĩa... từ đó, rút ra những vấn đề

khoa học có ý nghĩa thực tiễn cao qua từng chương, mục tiêu của

luận văn.

6. Đóng góp của đề tài

- Về lý luận: Củng cố và hệ thống hoá được các vấn đề cơ bản

của lý thuyết chiếu vật của ngôn ngữ học; xác lập được một số cơ sở và

thao tác để xác định các biểu thức chiếu vật được sử dụng trong hoạt

động giao tiếp; gợi mở và bước đầu vận dụng hướng nghiên cứu liên

ngành ngôn ngữ - văn hóa - văn học vào nghiên cứu chiếu vật của Việt

ngữ, đặc biệt là chiếu vật trong tác phẩm văn chương.

- Về thực tiễn: Cung cấp thêm tư liệu và kết quả phân tích

mới cho việc nghiên cứu và giảng dạy lý thuyết chiếu vật trong ngôn

ngữ thơ nói riêng và trong giao tiếp tiếng Việt nói chung; cung cấp

thêm cơ sở và phương tiện ngôn ngữ cho việc khám phá các giá trị và

nét độc đáo của ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ Xuân Quỳnh.

7. Cấu trúc luận văn: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và

tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương.

Chương 1: Cơ sở lí luận và những vấn đề liên quan.

Chương 2: Các biểu thức chiếu vật về người phụ nữ trong

ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ Xuân Quỳnh nhìn từ bình diện

cái biểu đạt.

Chương 3: Các biểu thức chiếu vật về người phụ nữ trong

ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ Xuân Quỳnh nhìn từ bình diện

cái được biểu đạt.

4

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

1.1. LÝ THUYẾT CHIẾU VẬT

1.1.1. Sự chiếu vật (reference)

Theo Đỗ Hữu Châu: “Chiếu vật chính là quan hệ giữa phát

ngôn (diễn ngôn) với các bộ phận tạo nên ngữ cảnh được gọi là sự

chiếu vật… Chiếu vật là hiện tượng ngữ dụng học đầu tiên bởi vì nhờ

chiếu vật mà ngôn ngữ gắn với ngữ cảnh, từ đó mà có căn cứ đầu

tiên để xác định nghĩa của đơn vị ngôn ngữ đang thực hiện chức

năng giao tiếp” [8, tr.186-187]. Tác giả Nguyễn Thiện Giáp có cách

nhìn nhận khác: “Quy chiếu là một hành động trong đó người nói

hoặc người viết dùng các hình thức ngôn ngữ cho phép người nghe,

người đọc nhận diện cái gì đó. Những hình thức ngôn ngữ ấy là

những biểu thức quy chiếu” (referring expression) [24, tr.28].

Như vậy, trên cơ sở tiếp thu những quan niệm khác nhau về

sự chiếu vật, chúng tôi đưa ra khái niệm về sự quy chiếu (hay chiếu

vật): đó là sự tương ứng giữa từ (hoặc giữa các đơn vị ngôn ngữ) với

các sự vật, con người, hoạt động, tính chất trong hiện thực được nói tới.

1.1.2. Biểu thức chiếu vật (referring expression)

a. Khái niệm biểu thức chiếu vật ?

Theo cuốn Từ vựng-ngữ nghĩa tiếng Việt và cuốn Cơ sở ngữ

nghĩa học từ vựng của tác giả Đỗ Hữu Châu thì kết cấu ngôn ngữ (từ,

cụm từ, câu) được dùng để chiếu vật được gọi là biểu thức chiếu vật.

Chúng tôi đồng tình với quan niệm cho rằng “Cũng như các tín hiệu

ngôn ngữ, BTCV có cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái biểu đạt của

BTCV là các đơn vị ngôn ngữ tạo nên nó. Cái được biểu đạt là sự vật

được quy chiếu hay CV tương ứng.” [8, tr.187]. Như vậy, các BTCV

có trong ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và Xuân Quỳnh sẽ được luận

văn này miêu tả trên hai bình diện: bình diện cái biểu đạt (hình thức

cấu tạo và quan hệ kết hợp cả về ý nghĩa và cú pháp); bình diện cái

được biểu đạt (sự vật được quy chiếu hay CV).

21

3.2.2. Chiếu vật về người phụ nữ trên hệ quy chiếu thế

giới nhân tạo

a. Ý nghĩa biểu trưng qua chiếu vật là trang y phục

Chủ yếu trong thơ Xuân Quỳnh, hình tượng chiếc nón (chiếc

nón, dáng nón) và áo (tà áo xuất hiện 3 lần, áo mẹ, màu áo, sơ mi, áo

tứ thân, chiếc áo cưới, áo chị) xuất hiện tuy không nhiều (tỷ lệ

17.64%) nhưng thể hiện nét đẹp duyên dáng của người phụ nữ.

3.2.3. Chiếu vật về người phụ nữ trên hệ quy chiếu thế

giới con người

a. Ý nghĩa biểu trưng qua chiếu vật bằng tên riêng

Toàn tập thơ chỉ có 2 lần nhắc đến tên Quỳnh trong cùng 1

bài thơ Tháng Ba, viết cho chị; trang 165, 166 (câu 16, 28) và 1 nhân

vật Ngọc Tường trong bài thơ Những năm tháng không yên; trang

141 (câu 165).

b. Ý nghĩa biểu trưng qua chiếu vật qua bộ phận cơ thể

Các BTCV bộ phận cơ thể xuất hiện nhiều nhất trong thơ

Xuân Quỳnh với số lượng là 15, chiếm tỷ lệ 3.37%/TS 498 BTCV

trong đó lòng em (24 lần), bàn tay (10 lần), chân (4 lần), vai, trái tim

(8 lần), gương mặt, mái đầu, tóc (4 lần), máu (2 lần)... Các BTCV

qua bộ phận cơ thể trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ khắc họa hình

dáng, dáng vẻ, những vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ mà sâu sắc

hơn là đời sống tâm hồn cao quý, thuần khiết đầy tin yêu.

c. Biểu thức chiếu vật về người phụ nữ qua biểu thức xưng hô

Trong số 27 đại từ nhân xưng được dùng trong thơ Xuân

Quỳnh, có 24/27 đại từ nhân xưng “đồng quy chiếu” đến nhân vật

Xuân Quỳnh (88.88%). Điều này cũng không có gì là khó lý giải bởi

Xuân Quỳnh xuất hiện hầu hết trong các cuộc giao tiếp với các nhân

vật khác trong tập thơ.

3.3. SO SÁNH CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT VỀ NGƯỜI

PHỤ NỮ TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ THƠ XUÂN

QUỲNH TRÊN BÌNH DIỆN CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT

20

những hình ảnh về vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ, chiếm tỷ lệ cao

trong nhóm hệ chiếu vật về thế giới con người (28%).

c. Biểu thức chiếu vật về người phụ nữ qua biểu thức xưng hô

Qua ngữ liệu khảo sát, chúng tôi nhận thấy: Bà chúa thơ

Nôm cũng rất giỏi sử dụng các đại từ nhân xưng, dùng để xưng hô

(chỉ xuất nhân xưng) (thiếp, mình,..), diễn tả đặc điểm ngoại hình,

thân phận, số phận, tâm lý, tình cảm, thậm chí cả địa vị, gia cảnh…

3.2. GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT

VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ XUÂN QUỲNH

3.2.1. Chiếu vật về người phụ nữ trên hệ quy chiếu thế

giới tự nhiên

a. Ý nghĩa biểu trưng qua chiếu vật động vật:

Thơ Xuân Quỳnh ít sử dụng hình tượng động vật để quy

chiếu đến hình tượng người phụ nữ, chỉ có 2 hình tượng “con cò và

con vạc” được nhà thơ nhắc đến trong 2 bài thơ [Bài thơ Nỗi buồn

anh; trang 98, câu 4] và [Bài thơ Thơ vui về phái yếu; trang 203, câu

31], chiếm tỷ lệ 5.55/TS 498 các BTCV được khảo sát.

b. Ý nghĩa biểu trưng qua chiếu vật thực vật

Có thể nói, thế giới các loài hoa trong thơ Xuân Quỳnh

không phong phú, chị thường gửi lòng mình vào những loài hoa bình

dị: hoa ngâu, hoa cúc, hoa dại, hoa tigon..., tỷ lệ 8.33%. Xuân

Quỳnh đã đem đến cho chúng ta một thế giới thiên nhiên mang đậm

cá tính, bộc lộ rõ cái nhìn sắc nét của tác giả về cuộc sống, trở thành

một hình tượng vừa gợi cảm vừa đa dạng.

c. Ý nghĩa biểu trưng qua chiếu vật hiện tượng thiên nhiên

Các BTCV hiện tượng thiên nhiên trong thơ Xuân Quỳnh chủ

yếu: “biển” (xuất hiện 8 lần), tiếp đến là “sóng” với 9 lần xuất hiện,

ngoài ra còn có các yếu tố khác trong nhóm: dòng sông, mùa hạ (2

lần). Với hình tượng thiên nhiên, thơ Xuân Quỳnh đã thể hiện một ý

thức sâu sắc về hạnh phúc hiện tại và có thực. Những gì đã có, những

gì sẽ mất đi sẽ khiến chúng ta trân trọng hơn cái chúng ta đang có.

5

Theo lý thuyết ngữ dụng học, không chỉ các sự vật, hiện

tượng mới được quy chiếu bằng ngôn ngữ và trở thành CV của

BTCV. BTCV không chỉ cấu tạo dưới dạng danh từ, đại từ hay ngữ

danh từ mà còn có các động từ/ngữ động từ, tính từ/ngữ tính từ, các

cấu trúc mệnh đề (cụm C-V). Trong phạm vi của luận văn này, khi

tiến hành khảo sát và miêu tả các BTCV về hình tượng người phụ nữ

trong ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ Xuân Quỳnh, chúng tôi

chỉ dừng lại ở việc khảo sát các BTCV có cấu tạo là một trong 3 kiểu:

danh từ, ngữ danh từ và quan hệ kết hợp.

b. Tiêu chí xác định biểu thức chiếu vật

- Tiêu chí thứ nhất-tiêu chí cấu trúc: Xét đến tính hoàn chỉnh, độc

lập tương đối của nó về mặt cấu tạo: hoặc là một từ, hoặc là một cụm từ.

- Tiêu chí thứ hai-tiêu chí chức năng: Một biểu thức ngôn

ngữ được coi là BTCV khi biểu thức ngôn ngữ đó chỉ ra được một

đối tượng, một thực thể cụ thể nào đó, trong thế giới khả hữu-hệ quy

chiếu của BTCV đang được tác giả hoặc nhân vật nói tới.

1.1.3. Chiếu vật và hệ quy chiếu

a. Khái niệm chiếu vật (referent)

Theo Đỗ Hữu Châu: “Thuật ngữ chiếu vật được dùng để

chỉ phương tiện, nhờ đó người nói phát ra một biểu thức ngữ vi với

biểu thức này nghĩ rằng nó sẽ giúp cho người nghe suy ra được một

cách đúng đắn thực thể nào, quan hệ nào, sự kiện nào anh ta định

nói đến”. [7, tr.61].

b. Nghĩa, ý nghĩa, chiếu vật

Xét về mặt tín hiệu học thì thứ nhất từ ngữ âm là cái biểu hiện

của nghĩa của từ (cái được biểu hiện); thứ hai, từ ngữ âm cùng với

nghĩa của mình lại là cái biểu hiện của cái sở chỉ; thứ ba, trong những

phát ngôn cụ thể, toàn bộ tam giác ngữ nghĩa còn có thể đóng vai trò là

một tín hiệu của một sự vật khác. Như vậy, nghĩa (sense) và sở chỉ là

cái được biểu hiện. Nhưng ý nghĩa (meaning) không phải là cái được

6

biểu hiện mà là mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện.

[25, tr. 310-311]. Ý (meaning) của từ (cũng như của các đơn vị ngôn

ngữ khác) là quan hệ của từ với cái gì đó nằm ngoài bản thân nó.

c. Hệ quy chiếu

Nói đến hệ quy chiếu là nói đến sự tồn tại của sự vật, hiện

tượng trong thế giới. Việc phân loại và miêu tả CV của các BTCV

trong luận văn này cũng dựa vào việc xác định đúng thế giới khả hữu –

HQC mà ở đó các sự vật được quy chiếu tồn tại. Theo đó, thế giới hư

cấu trong thơ Hồ Xuân Hương và Xuân Quỳnh có thể được phân chia

thành các bộ phận– HQC khác nhau như sau: thiên nhiên, con người,

thực vật, động vật, ẩm thực, đồ dùng gia đình...Sau khi nhận diện CV

cụ thể của BTCV, để phân loại và miêu tả các biểu thức chiếu vật về

người phụ nữ trong ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ Xuân

Quỳnh, chúng tôi xác định HQC mà vật được quy chiếu tồn tại và

được người sử dụng biểu thức đó hướng đến.

d. Chiếu vật trong tác phẩm văn chương

Để giải mã được toàn bộ hệ quy chiếu xuất hiện trong các tác

phẩm văn chương, nhà nghiên cứu ngôn ngữ học không chỉ thấy được

sự tương ứng giữa từ (hoặc giữa các đơn vị ngôn ngữ) với các sự vật,

con người, hoạt động, tính chất trong hiện thực được nói tới mà còn đòi

hỏi phải có một vốn hiểu biết sâu về lịch sử, văn hóa thời đại ra đời tác

phẩm (ngữ cảnh rộng); cuộc đời, sự nghiệp của tác giả (ngữ cảnh hẹp),

ngữ cảnh trực tiếp,…để có được những tiền giả định chính xác, lập

thành một hệ quy chiếu phù hợp và đưa ra những ý nghĩa xác đáng nhất.

1.2. LÝ THUYẾT HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP

1.2.1. Các nhân tố của hoạt động giao tiếp

a. Ngữ cảnh (situational context; context of situation)

Theo Đỗ Hữu Châu: “Bối cảnh ngoài ngôn ngữ của một phát

ngôn hay là những thông tin ngoài ngôn ngữ góp phần tạo nên nghĩa

(của phát ngôn)” [8, tr.97]

19

phấn son, trâm cài lược chải, yếm đào...Vì vậy mà khi khảo sát tập

thơ Nôm truyền tụng và Lưu Hương Kí của Hồ Xuân Hương, chúng

tôi đặc biệt lưu tâm đến các BTCV này, trong đó “phấn son” xuất

hiện 3 lần ở 3 bài khác nhau.

b. Ý nghĩa biểu trưng qua chiếu vật là ẩm thực:

Các BTCV là ẩm thực trong thơ Hồ Xuân Hương gắn liền

với đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân như “xôi, khoai,

bánh trôi nước…”. Đây là các món ẩm thực dân dã, dễ gặp ở mọi

miền đất nước và khi đề cập đến thơ Hồ Xuân Hương, người đọc

nghĩ ngay đến 2 bài thơ nổi tiếng là “Bánh trôi nước” và “Quả mít”

(đã phân tích trong Chương 2) chiếm tỷ lệ 20.83%/TS 121 BTCV.

c. Ý nghĩa biểu trưng qua chiếu vật là vật dụng, sinh hoạt

gia đình

Các BTCV ở nhóm này tần số xuất hiện cũng ít, chiếm tỷ lệ

29.16%/TS 121 các BTCV. Các chiếu vật là vật dụng, sinh hoạt trong

gia đình trong thơ Hồ Xuân Hương cho thấy một lần nữa, bà luôn đề cao

thân phận và phẩm chất, về giá trị của người phụ nữ trong xã hội xưa.

3.1.3. Chiếu vật về người phụ nữ trên hệ quy chiếu thế

giới con người

a. Ý nghĩa biểu trưng qua chiếu vật bằng tên riêng

Các BTCV ở dạng tên riêng được Hồ Xuân Hương sử dụng rất

ít, chiếm tỷ lệ 6%; tuy nhiên, thể hiện rõ nét dấu ấn cá nhân, là một sự

phá cách độc đáo, cũng đủ khẳng định: phụ nữ phải luôn nhận thức về

mình, tin tưởng ở thế mạnh, tài sắc, đức độ của mình và vững tâm đấu

tranh vượt qua dần những rào cản bất công, phi nghĩa của xã hội.

b. Ý nghĩa biểu trưng qua chiếu vật qua bộ phận cơ thể

Xuất phát từ cơ sở của văn hoá phồn thực, Xuân Hương coi

thân thể của người phụ nữ là vẻ đẹp thiên phú, là sản phẩm vốn có

của tự nhiên nên việc miêu tả những gì thuộc về người phụ nữ cũng

là lẽ đương nhiên. Với tài sử dụng ngôn ngữ điêu luyện và những

hình ảnh ẩn dụ, Hồ Xuân Hương đã đem đến cho người đọc hàng loạt

18

mưa bên ruộng đồng, bầu bạn cùng người nông dân, đó là con cò

trắng phau, mấp máy suốt đêm thâu hay con ốc nhồi lăn lóc đám cỏ

hôi, luôn sống trong cảnh thấp thỏm lo âu, chờ đợi và chưa một lần

được quyền quyết định về tương lai.

b. Ý nghĩa biểu trưng qua chiếu vật thực vật:

Các BTCV về người phụ nữ từ nhóm chiếu vật thực vật trong

thơ Hồ Xuân Hương mặc dù chiếm tỷ lệ tương đối ít (tỷ lệ

21.73%/TS 121 BTCV) nhưng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng

người tiếp nhận.Trong thế giới ấy, có thể nói “liễu” là thực thể phổ

biến trong thơ Hồ Xuân Hương 7 lần xuất hiện ở những ngữ cảnh

khác nhau hay quy chiếu đến người con gái, phụ nữ. Ngoài ra, còn có

các BTCV khác như “bèo non”, “quế, cành gấm, lá ngọc, lá thắm…”

cũng được Hồ Xuân Hương sử dụng để nói đến thân phận hẩm hiu

của người phụ nữ trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ.

c. Ý nghĩa biểu trưng qua chiếu vật hiện tượng thiên nhiên:

Trong thơ Hồ Xuân Hương, các BTCV hiện tượng thiên

nhiên quy chiếu về người phụ nữ có các từ “xuân”, “nguyệt” (xuất

hiện 6 lần). Từ “xuân”, “trăng”, “nguyệt” xuất hiện ở ngữ cảnh

khác nhau sẽ khác nhau với nhiều loại từ và miêu tả tố đi kèm khác

nhau trong cấu trúc của BTCV: loại từ đứng trước “trăng” thì có

“bóng, vầng”; miêu tả tố đi kèm phía sau thì có thu,…Hình tượng

thân thể mang vẻ đẹp tự nhiên của người phụ nữ trong thơ Nôm Hồ

Xuân Hương toát lên sự thanh tân, thánh thiện.

3.1.2. Chiếu vật về người phụ nữ trên hệ quy chiếu thế

giới nhân tạo

a. Ý nghĩa biểu trưng qua chiếu vật là trang y phục:

Những trang thơ viết về người phụ nữ không thể thiếu những

từ ngữ viết về trang sức, y phục, bởi họ được ví von là phái đẹp.

Chính sự chỉnh chu từ bên ngoài đã phần nào thể hiện phẩm chất,

tính cách con người và đối với người phụ nữ, làm sao thiếu được

7

Ngữ cảnh tình huống là ngữ cảnh của một hiện tượng ngôn

ngữ, của một văn bản, của một trường hợp cụ thể của ngôn ngữ. Ngữ

cảnh tình huống là thế giới xã hội và tâm lý trong đó, ở một thời điểm

nhất định người ta sử dụng ngôn ngữ. Ngữ cảnh văn hóa là ngữ cảnh

của ngôn ngữ với tư cách là một hệ thống. Nó bao gồm hàng loạt

nhân tố văn hóa như phong tục, tập quán, các chuẩn mực, quan niệm,

sự kiện lịch sử, những tri thức về tự nhiên và xã hội, về chính trị và

kinh tế. [24, tr.24, 25]

b. Ngôn ngữ (language)

“Diễn ngôn được nói hay viết ra trong những biến thể đó một

cách hỗn đồng (có nghĩa là một diễn ngôn đồng thời được sản sinh

ra dưới ảnh hưởng của các biến thể của một ngôn ngữ nhất định).

Những nhân tố biến thể và nhân tố loại thể nhất định để lại những

dấu vết đối với diễn ngôn về hình thức, về nội dung, chi phối diễn

ngôn cả về phía sản sinh và phía tiếp nhận” [8, tr.122]. Các nhân tố

về ngữ cảnh và ngôn ngữ kể trên cần thiết được các đối ngôn lĩnh

hội, hiểu biết về chúng và có ý thức đưa chúng vào hoạt động giao

tiếp. Như vậy, xét cho cùng, nhân tố con người (mà ở đây cụ thể là

các đối ngôn) vẫn giữ vai trò trung tâm, quyết định đối với các nhân

tố còn lại.

c. Diễn ngôn (discourse)

“Diễn ngôn là bộ phận hợp thành sự kiện lời nói và tổ hợp các

sự kiện lời nói hình thành một cuộc giao tiếp.Các chức năng giao tiếp

được thực hiện bằng các diễn ngôn và cụ thể hóa thành phần của diễn

ngôn” [8, tr. 198]. Diễn ngôn có hai phương diện: hình thức và nội

dung. Hình thức của diễn ngôn bao gồm tất cả các yếu tố ngôn ngữ

(thuộc ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, ngữ dụng…) và các yếu tố phi ngôn

ngữ (yếu tố kèm lời và phi lời) được dùng khi các đối ngôn tạo ra diễn

ngôn. Nội dung của diễn ngôn gồm hai thành phần: thành phần nội dung

thông tin (hay nội dung miêu tả) “Thực hiện chức năng thông tin của

8

giao tiếp, thuộc lĩnh vực nghĩa học của tín hiệu học và bị quy định bới

tính đúng-sai logic” [8, tr.148].

1.2.2. Các nhân tố giao tiếp và chiếu vật trong tác phẩm

văn chương

a. Đối ngôn (tác giả và bạn đọc)

Trong giao tiếp văn chương, quá trình tiếp nhận và độc giả

đóng vai trò quan trọng. Độc giả đóng vai trò tích cực, không chỉ

tham gia trong việc lĩnh hội tác phẩm sau khi nhà văn hoàn thành nó

mà chi phối ngay từ khi tác phẩm được thai nghén và ở trong quá

trình sáng tác. Xét về mối quan hệ giữa tác giả và độc giả, giữa quá

trình sáng tác và quá trình tiếp nhận và độc giả góp phần sự sống của

tác phẩm. Khi nào có sự tiếp nhận của độc giả thì khi đó có tác phẩm

mới thực sự có cuộc sống của nó và chừng nào còn người đọc thì

chừng đó tác phẩm còn tiếp tục sự sống.

b. Ngữ cảnh, tình huống giao tiếp

Tình huống giao tiếp là trạng thái trực tiếp do tác động của

các nhân tố giao tiếp trong một cuộc giao tiếp cụ thể mà có. Mỗi tác

phẩm trong tập thơ Không bao giờ là cuối của Xuân Quỳnh hay trong

tập Thơ Hồ Xuân Hương đều có tư cách như là sản phẩm của các hoạt

động giao tiếp bằng ngôn ngữ (giao tiếp nghệ thuật) và trong hoạt động

đó luôn tồn tại sự tương tác giữa các nhân tố giáo tiếp như các đối

ngôn (tác giả và bạn đọc), ngữ cảnh, tình huống giao tiếp và ngôn ngữ

(ngôn ngữ nghệ thuật). Tất cả các nhân tố này đều được vận dụng

trong việc nhận diện các BTCV và CV của chúng trong luận văn.

c. Ngôn ngữ nghệ thuật

Văn chương là loại hình nghệ thuật dùng ngôn ngữ làm chất

liệu. Là nghệ thuật ngôn từ hay ta có thể nói cách khác ngôn ngữ là

yếu tố thứ nhất của nghệ thuật văn chương: không có ngôn ngữ

không có nghệ thuật văn chương. Sử dụng ngôn ngữ để sáng tạo nghệ

thuật văn chương, tác giả (và cả độc giả) thực hiện hoạt động nhận

17

hẳn so với hai nhóm còn lại trong thơ Xuân Quỳnh; còn thơ Hồ Xuân

Hương thì 2 nhóm BTCV về người phụ nữ thuộc về thế giới tự nhiên

và thế giới con người hầu như không chênh lệch nhiều.

- Thứ hai, kết quả so sánh cho thấy, các BTCV có cấu tạo

ngữ danh từ trong thơ Xuân Quỳnh chiếm ưu thế và chênh lệch khá

rõ thì trong thơ Hồ Xuân Hương không chênh lệch nhiều. Có thể

thấy, các BTCV có kết cấu sóng đôi thể hiện nét độc đáo, sáng tạo và

có giá trị biểu đạt riêng trong thơ Xuân Quỳnh (23 cặp) trong khi thơ

Hồ Xuân Hương chiếm một tỉ lệ ít hơn (17 cặp).

- Thứ ba, việc sử dụng các BTCV là từ đơn trong thơ Xuân

Quỳnh chiếm ưu thế rõ rệt (gấp gần 3 lần so với từ ghép). Trong khi

đó, trong thơ Hồ Xuân Hương, tỷ lệ chênh lệch nhau giữa từ đơn và

từ ghép là không đáng kể.

2.4. TIỂU KẾT

CHƯƠNG 3

CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ

TRONG NGÔN NGỮ THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ THƠ

XUÂN QUỲNH NHÌN TỪ BÌNH DIỆN CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT

3.1. GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT

VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG

3.1.1. Chiếu vật về người phụ nữ trên hệ quy chiếu thế

giới tự nhiên

a. Ý nghĩa biểu trưng qua chiếu vật động vật:

Qua khảo sát, chúng tôi nhận ra, các BTCV về người phụ nữ

từ nhóm chiếu vật động vật chiếm tỷ lệ rất ít (21.73%/TS 121

BTCV). Tiềm thức cùng sự am hiểu, gắn bó lâu dài với cuộc sống

“bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” khiến bà chúa thơ Nôm tự ẩn

cuộc đời mình vào những thân phận nhỏ bé, thấp hèn, bươn chải nắng

16

* Quan hệ kết hợp ở cấp độ câu: Thống kê BTCV làm

thành phần chủ ngữ trong câu: Từ dữ liệu thống kê cho thấy BTCV

làm thành phần chủ ngữ trong câu trong thơ Xuân Quỳnh chiếm tỷ lệ

khá cao 78.51%/TS 498 BTCV được khảo sát. Phần lớn danh từ và

đại từ giữ chức vụ là chủ ngữ trong câu.

* Quan hệ kết hợp sóng đôi: Các BTCV là kết cấu sóng đôi

cũng phần nhiều là do sự tổ hợp của các bộ phận mang động từ

(chiếm tỷ lệ 34.78 %) và danh từ (chiếm tỷ lệ 39.13%) tạo nên,

thường quy chiếu về cái tôi, thể hiện tình cảm, và nỗi khát vọng tình

yêu của Xuân Quỳnh.

2.3. SO SÁNH CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT VỀ NGƯỜI

PHỤ NỮ TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ THƠ XUÂN

QUỲNH TRÊN BÌNH DIỆN CÁI BIỂU ĐẠT

2.3.1. Điểm tương đồng

Về cấu tạo, các BTCV được khảo sát trong thơ Hồ Xuân

Hương và Xuân Quỳnh có 3 kiểu cấu tạo: ngữ danh từ, danh từ và

quan hệ kết hợp ở: cụm từ, câu và quan hệ kết hợp sóng đôi trong đó

các BTCV là danh từ có 2 kiểu cấu tạo chính (từ đơn và từ ghép); các

BTCV là ngữ danh từ có các yếu tố ngôn ngữ thuộc 3 nhóm có thể

làm trung tâm hoặc làm thành tố phụ; các kết cấu sóng đôi đều có số

lượng và tỷ lệ thấp nhất và được tạo do sự kết hợp giữa hai thành tố

đều là danh từ/ngữ danh từ hoặc động từ/ngữ động từ tạo nên.

Về quan hệ kết hợp, các BTCV được khảo sát trong thơ Hồ

Xuân Hương và Xuân Quỳnh đều có khả năng kết hợp với các yếu tố

ngôn ngữ khác để trực tiếp làm thành phần cấu tạo ở cấp độ cụm từ

hoặc cấp độ câu. Khi tham gia vào các quan hệ kết hợp để trực tiếp

làm thành phần câu, các BTCV có khả năng lớn nhất trong việc giữ

chức vụ chủ ngữ trong câu.

2.3.2. Điểm khác biệt

- Trước hết, kết quả so sánh cho thấy nhóm BTCV về người

phụ nữ thuộc thế giới con người chiếm tỷ lệ cao nhất và chênh lệch

9

thức, tư duy. Có điều hoạt động nhận thức tư duy trong nghệ thuật có

đặc tính riêng, mang tính nghệ thuật nên thường được gọi là tư duy

hình tượng để phân biệt với tư duy bằng ngôn ngữ trong sinh hoạt

hàng ngày hay trong lĩnh vực khoa học.

1.3. GIỚI THIỆU VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ XUÂN QUỲNH

1.3.1. Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương và tập Lưu Hương Kí

Hồ Xuân Hương được biết đến là một người thông minh, có

tài, rất mong mỏi được một người chồng xứng đáng nhưng đường

tình duyên trắc trở, đầy đau khổ.

Về thơ văn của Hồ Xuân Hương còn lại cho đến nay là do

lưu truyền và người đời sau ghi chép lại. Theo các nhà nghiên cứu

cho rằng sáng tác của Hồ Xuân Hương có hải mảng: thơ Nôm truyền

tụng và Lưu Hương ký. Về Thơ Nôm truyền tụng có rất nhiều ý kiến

khác nhau về số lượng bài. Về Lưu Hương Ký: Hàng trăm năm đã

trôi qua, bà được biết đến là bà chúa Thơ Nôm. Lưu Hương Ký là

một tập thơ chủ yếu về tình yêu với một giọng trữ tình, tất cả toát lên

một tình cảm rất chân thành, thiết tha, cởi mở của một người muốn

yêu và được yêu, nhiều bài thơ là một tiếng thở dài ngậm ngùi, như

khắc khoải cho những mối tình không trọn vẹn.

1.3.2. Xuân Quỳnh - người đàn bà làm thơ

Xuân Quỳnh xuất thân trong một gia đình công chức, mẹ mất

sớm, bố thường xuyên công tác xa gia đình, chị được bà nội nuôi dạy

từ nhỏ đến khi trưởng thành.

Chủ đề thơ Xuân Quỳnh thường là những vấn đề nội tâm: kỷ

niệm tuổi thơ, tình yêu gia đình... Tập thơ “Không bao giờ là cuối” là

tuyển tập thơ giới thiệu một cách đầy đủ về cuộc đời và sự nghiệp thi

ca của nữ thi sĩ tài hoa bạc mệnh Xuân Quỳnh.Phần đầu của cuốn

sách có tên gọi “Dẫu biết chắc rằng anh trở lại”. Phần 2 của cuốn

sách là những trăn trở, suy ngẫm của tác giả về “Những năm tháng

không yên của đất nước và lòng người”. Phần cuối cùng của tuyển

10

tập - “Bầu trời trong quả trứng”. Một nhà nhiên cứu đã từng viết:

“Tiếng thơ Xuân Quỳnh là một tiếng nói mới của thơ dân tộc, tiếng

nói phản ảnh chiều sâu của văn hóa dân tộc”. Và đến Xuân Quỳnh,

người đọc mới cảm nhận thế giới cuộc sống phong phú, đa dạng đã

được chị đưa vào thơ một cách tự nhiên và rất đỗi chân thành.

1.4. TIỂU KẾT

CHƯƠNG 2

CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG

NGÔN NGỮ THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ THƠ XUÂN

QUỲNH NHÌN TỪ BÌNH DIỆN CÁI BIỂU ĐẠT

2.1. CẤU TẠO CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT VỀ NGƯỜI

PHỤ NỮ TRONG NGÔN NGỮ THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG

2.1.1. Các biểu thức chiếu vật về người phụ nữ phân theo

nhóm chủ đề

a. Các biểu thức chiếu vật về người phụ nữ thuộc hệ chiếu

vật thế giới tự nhiên

Qua phân tích dữ liệu, chúng tôi nhận thấy, nhóm chiếu vật

hiện tượng thiên nhiên chiếm tỷ lệ cao nhất (30.43%), điều đó chứng

tỏ thơ Hồ Xuân Hương viết về thiên nhiên thật đậm đà, thắm thiết với

cảnh vật non sông đất nước. Qua các nhóm chiếu vật về thế giới tự

nhiên, Hồ Xuân Hương muốn đề cao vẻ đẹp cũng như khẳng định giá

trị, phẩm chất đạo đức của người phụ nữ Việt Nam.

b. Các biểu thức chiếu về về người phụ nữ thuộc hệ chiếu

vật là thế giới nhân tạo

Từ số liệu đã phân tích chúng tôi nhận thấy, các tiểu nhóm

đều có số lượng gần như ngang nhau, điều đó cho thấy việc sử dụng

ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương rất gần gũi với đời sống hàng

ngày, với người lao động bình thường. Nhóm chiếu vật là trang, y

15

Các nhóm BTCV về người phụ nữ từ HCV thế giới con người

trong ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh chủ yếu xuất hiện nhiều nhất là các

chiếu vật qua bộ phận cơ thể con người (3.37%) và qua biểu thức

xưng hô được Xuân Quỳnh sử dụng nhiều nhất, có biểu thức xưng hô

em (tần số xuất hiện 225 lần), tiếp đến là biểu thức xưng hô tôi (103

lần), ta (928 lần).

2.2.2. Cấu tạo của các BTCV về người phụ nữ trong thơ

Xuân Quỳnh

a. Biểu thức chiếu vật có cấu tạo là ngữ danh từ: Từ dữ

liệu đã phân tích cho thấy, thành tố trung tâm của các ngữ danh từ

làm các BTCV chiếm tỷ lệ cao nhất (ngữ danh từ nào cũng có thành

tố trung tâm) so sới các thành tố phụ trước và thành tố phụ sau trong

thơ Xuân Quỳnh.

b. Biểu thức chiếu vật có cấu tạo là danh từ: Qua dữ liệu đã

thống kê, phân loại, chúng tôi nhận thấy, các BTCV có cấu tạo là

danh từ đơn và danh từ ghép có tỷ lệ chênh lệch tương đối; số các

BTCV là từ đơn chiếm ưu thế hơn số các BTCV là từ ghép.

* BTCV có cấu tạo là từ đơn: Theo ngữ liệu của luận văn,

các BTCV là từ đơn có tỷ lệ cao hơn so với từ ghép (177/230=76.95

%) và chiếm 35.52 % trong tổng số 498 các BTCV được khảo sát.

Các từ đơn này quy chiếu đến nhiều sự vật khác nhau trong những

ngữ cảnh khác nhau, trên những HQC khác nhau.

* BTCV có cấu tạo là từ ghép: Chiếm tỷ lệ thấp hơn so với

từ đơn và chiếm tỷ lệ rất thấp (10.64 %) trong tổng số các BTCV.

c. Quan hệ kết hợp của các biểu thức chiếu vật về người

phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh

* Quan hệ kết hợp ở cấp độ cụm từ: Xét quan hệ kết hợp

của các BTCV được khảo sát ở bậc cụm từ, chúng tôi nhận thấy quan

hệ kết hợp trong cụm từ cố định trong thơ Xuân Quỳnh không có,

chủ yếu là các cụm từ tự do, chiếm tỷ lệ 32.73%/TS 498 BTCV.

14

- Các biểu thức chiếu vật làm thành phần trạng ngữ trong

câu: số liệu thống kê rất ít

* Quan hệ kết hợp sóng đôi : Các BTCV là kết cấu sóng đôi

cũng phần nhiều là do sự tổ hợp của các bộ phận mang danh từ tạo

nên (22/23 = 95.65%). Các BTCV ở dạng này trong thơ Hồ Xuân

Hương thường quy chiếu về thân phận hoặc đặc điểm của nhân vật:

duyên - nợ, duyên - kiếp, bụng - thân, thịt - da, chàng-thiếp, lòng-dạ,

giai nhân-tài tử, chân-gối, trầu-cau, hoa-cành.

2.2. CẤU TẠO CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT VỀ NGƯỜI

PHỤ NỮ TRONG NGÔN NGỮ THƠ XUÂN QUỲNH

2.2.1. Các biểu thức chiếu vật về người phụ nữ phân theo

nhóm chủ đề

a. Các biểu thức chiếu vật về người phụ nữ thuộc hệ chiếu

vật thế giới tự nhiên

Khác với Hồ Xuân Hương, các BTCV về người phụ nữ từ

HCV thuộc nhóm hiện tượng thiên nhiên chiếm tỷ lệ cao hơn so với 2

nhóm còn lại (19.44%) (Biển, con sóng, hạt bụi, mùa hạ của tôi, con

cò, con vạc, thân cò, vườn hoa, màu hoa, cánh đồng hoa, hàng

cây…), nhóm chiếu vật về thực vật (chiếm tỷ lệ 11.11%), nhóm chiếu

vật về động vật có tỷ lệ thấp nhất (5.55%).

b. Các biểu thức chiếu vật về người phụ nữ thuộc hệ chiếu

vật là thế giới nhân tạo

Qua khảo sát các bài thơ trong tập thơ “Không bao giờ là

cuối” của Xuân Quỳnh, chúng tôi không phát hiện các tiểu nhóm

chiếu vật là ẩm thực và nhóm chiếu vật là vật dụng, sinh hoạt gia

đình để quy chiếu đến người phụ nữ. Nhóm chiếu vật là trang, y phục

chiếm tỷ lệ 23.07% và nhóm chiếu vật là ẩm thực chỉ có tỷ lệ 7.69%

c. Các biểu thức chiếu vật về người phụ nữ thuộc hệ chiếu vật

là thế giới con người

11

phục (son phấn, ngọc, quần hồng, lược…) và nhóm chiếu vật về vật

dụng sinh hoạt gia đình (giếng, mõ, chuông, chén…) có tỷ lệ ngang

nhau (29.16%).

c. Các biểu thức chiếu vật vềngười phụ nữ thuộc hệ chiếu

vật là thế giới con người

Theo dữ liệu đã thống kê, phân loại, chúng tôi nhận thấy tiểu

nhóm chiếu vật qua bộ phận cơ thể con người chiếm tỷ lệ cao nhất

(28%) so với 2 nhóm còn lại là chiếu vật bằng tên riêng (6%) và người

phụ nữ nói chung qua xưng hô: biểu xưng hô chiếm tỷ lệ 21.56%.

2.1.2. Cấu tạo của các BTCV về người phụ nữ trong thơ

Hồ Xuân Hương

a. Biểu thức chiếu vật có cấu tạo là ngữ danh từ

Ngữ danh từ (hay cụm danh từ) là tổ hợp tự do có quan hệ

chính phụ giữa thành tố chính và thành phố phụ trong đó thành tố

chính là danh từ. Các ngữ danh từ là dạng biểu thức ngôn ngữ có hiệu

quả quy chiếu cao nhất bởi khả năng “định danh” sự vật một cách cụ

thể, xác định do các yếu tố miêu tả (định tố) đi kèm danh từ trung

tâm mang lại. Các định tố-miêu tả càng nhiều thì hệ quả quy chiếu

càng cao.

Từ dữ liệu đã phân tích, chúng tôi nhận thấy thành tố trung

tâm của các ngữ danh từ làm các BTCV có tỷ lệ cao so với các thành

tố phụ trước và thành tố phụ sau trong thơ Hồ Xuân Hương.

* Đặc điểm của thành tố phụ trước trong các ngữ danh từ

làm BTCV

Số các BTCV là ngữ danh từ có thành tố phần phụ không

nhiều và cũng không phong phú về mặt vị trí, chủ yếu là vị trí (-2) -

chỉ lượng. Trong đó có cả các thành tố phụ trước chỉ lượng xác định

(Một, hai, trăm, nghìn…) và các thành tố phụ trước chỉ lượng ước

chừng (mấy…)

* Đặc điểm thành tố phụ sau trong các ngữ danh từ làm BTCV

12

Xét về cấu tạo (từ loại), thành tố phụ sau của các ngữ danh từ

có thể là danh từ, động từ, tính từ, đại từ, số từ. Xét về tổ chức, thành

tố phụ sau có thể là 1 từ, một cụm từ theo các kiểu quan hệ C-V, đẳng

lập, chính phụ. Thành tố phụ sau có cấu tạo là một từ được dùng theo

lối ẩn dụ hoặc hoán dụ để biểu thị thuộc tính, trạng thái, đặc điểm (hiện

tượng chuyển loại lâm thời) của người hoặc các sự vật khác.

Nếu độc lập một mình đứng sau các danh từ trung tâm thì

phần lớn đều biểu thị một đặc điểm, thuộc tính mang tính “tích cực”

(tốt, đẹp) của sự vật được nêu ở danh từ trung tâm, như: (cân vàng,

giếng lạ lùng…). Nếu kết hợp với các yếu tố ngôn ngữ khác để tạo

nên các từ ghép (trăng gió, ốc nhồi, …) hoặc các cụm từ (chính phụ,

sóng đôi hoặc C-V) thì chúng thường biểu thị đặc điểm, thuộc tính ít

nhiều “tiêu cực” (xấu, không may mắn) của thực thể được nêu ở danh

từ trung tâm, như: (phận ốc nhồi, tình trăng gió…).

b. Biểu thức chiếu vật có cấu tạo là danh từ

Để thấy được đặc điểm của cấu tạo của các BTCV là danh từ,

luận văn đã tiến hành phân loại chúng dựa trên tiêu chí phương thức cấu

tạo. Theo phương thức cấu tạo của tiếng Việt, các BTCV trong thơ Hồ

Xuân Hương mà luận văn tập trung khảo sát đó là từ đơn và từ ghép.

* BTCV có cấu tạo là từ đơn

Theo ngữ liệu của luận văn, các BTCV là từ đơn có tỷ lệ thấp

hơn so với từ ghép (29/66=43.93%) và chiếm 23.96 % trong tổng số

121 các BTCV được khảo sát. Các từ đơn này quy chiếu đến nhiều sự

vật khác nhau trong những ngữ cảnh khác nhau, trên những HQC

khác nhau: (kẻ, gái, nguyệt, mình, cô, dạ, mái tóc, má hồng, em, đầu

xanh, quế, ngọc, duyên, …)

* BTCV có cấu tạo là từ ghép

BTCV có cấu tạo là từ ghép chiếm tỷ lệ cao hơn so với từ

đơn và chiếm tỷ lệ 30.57% trong tổng số các BTCV.Ý nghĩa của các

từ ghép khi được dùng làm các BTCV trong ngữ cảnh cụ thể của diễn

13

ngôn đã trở nên cụ thể, rõ ràng, gắn với một đối tượng cụ thể (con

người/nhân vật) chứ không còn mang tính chất chung chung, khái quát.

c. Quan hệ kết hợp của các biểu thức chiếu vật về người

phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương

* Quan hệ kết hợp ở cấp độ cụm từ

Cụm từ cố định và cụm từ tự do chúng đều có điểm giống

nhau: cả hai đều là cụm từ, được tạo lập bằng sự tổ hợp của các từ.

Nét giống nhau thứ hai là giống nhau về hình thức ngữ pháp. Điều

này dẫn đến hệ quả là quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố cấu tạo

cũng giống nhau.

Cụm từ cố định hiện diện với tư cách là đơn vị của hệ thống

ngôn ngữ, ổn định và tồn tại dưới dạng làm sẵn. Trong khi đó, cụm từ

tự do được đặt ra trong lời nói, trong diễn ngôn (discourse).Nó hợp

thành đấy, rồi phân chia ra đấy, vì nó không tồn tại dưới dạng một

đơn vị làm sẵn. Cụm từ tự do chỉ là một sự lấp đầu từ vào một mô

hình ngữ pháp cho trước mà thôi.

Vì tồn tại dưới dạng làm sẵn nên thành tố cấu tạo cụm từ cố

định có số lượng ổn định, không thay đổi. Ngược lại, số thành tố cấu

tạo cụm từ tự do có thể thay đổi tuỳ ý. Về ý nghĩa, cụm từ cố định có

ý nghĩa như một chỉnh thể tương ứng với một chỉnh thể cấu trúc vật

chất của nó. Có nghĩa là nó có tính thành ngữ rất cao, còn cụm từ tự

do thì không như vậy.

* Quan hệ kết hợp ở cấp độ câu:

- Thống kê BTCV trên cơ sở làm thành phần chủ ngữ trong

câu: Xét về cấu tạo, chủ ngữ thường được cấu tạo bởi một từ hoặc

một cụm từ. Xét về từ loại, chủ ngữ trong câu tiếng Việt thường do

danh từ, đại từ đảm nhận. Các thực từ khác như động từ, tính từ, số từ

cũng có thể làm chủ ngữ nhưng được sử dụng với tần số ít hơn. Xét

xề vị trí, chủ ngữ thường đứng trước vị ngữ.

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐÀ NẴNG

LÊ THỊ MỸ HẠNH

KHẢO SÁT CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT

VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG NGÔN NGỮ

THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ THƠ XUÂN QUỲNH

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Mã số: 60.22.02.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN VĂN SÁNG

ĐÀ NẴNG, NĂM 2017

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!