Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hướng dẫn quản lý tổ chức lễ hội truyền thống ở cơ sở
PREMIUM
Số trang
208
Kích thước
8.9 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
843

Hướng dẫn quản lý tổ chức lễ hội truyền thống ở cơ sở

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

^ TÉSÉdi .

T ^ V

HƯỚNG DẪN

QUẢN LÝ, TỔ CHỨC

LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG

Ồ Cd s ể

- ì

HƯỚNG DẪN

QUẢN LÝ, TỔ CHỨC

LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG

ỏ CO Sỏ

Chủ tịch H ội đồn g

PGS. TS. NGUYỄN THẾ KỶ

P hó Chủ tich H ội đ ồn g

TS. HOÀNG PHONG HÀ

HỘI ĐỔNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN

T hành v iên

TRẦN QỤỐC DÂN

TS. NGUYỄN ĐỨC TÀI

TS. NGUYỄN AN TIÊM

NGUYỄN VŨ THANH HẢO

Mã sô": -

3.39

CTQG-2015

PHẠM LAN OANH - NGUYỄN HOÀNG

HƯỚNG DẪN

QUẢN LÝ, TỔ CHỨC

LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG

ỗ C0 sể

NHÀ XUẤT BÀN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - sự THẬT

Hà Nội-2015

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Lễ hội truyền thông là một loại hình sinh hoạt

cộng đồng đã và đang chiếm vỊ trí quan trọng trong đời

sông văn hóa - xã hội Việt Nam không chỉ bởi có sô"

lượng đông đảo người tham gia, mà còn đang bảo tồn

những giá trị văn hóa truyền thông của dân tộc.

Những năm gần đây, trong bối cảnh công nghiệp

hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của nưốc ta, văn hóa

truyền thông nói chung, trong đó có lễ hội truyền thõíng

đã được phục hồi và phát huy, làm phong phú hơn đòi

sông văn hóa của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những

mặt tích cực, có không ít các vấn đề nảy sinh khiến xã

hội cần phải nhìn nhận lại và tìm cách khắc phục để

những khuôn diện tinh hoa của lễ hội truyền thống được

đẩy mạnh và phát huy, khắc phục dần các hạn chế, tiêu

cực của lễ hội trong đòi sõng xã hội đương đại.

Đe cung cấp thêm tư liệu giúp cho cán bộ làm

công tác văn hóa ở cơ sở trong công tác quản lý, tổ

chức lễ hội truyền thông, Nhà xuất bản Chính trị

quôh gia - Sự thật xuất bản cuô"n sách H ư ớng d ẫ n

q u ả n lý, tô ch ứ c lễ h ôi tru y ề n th ô n g ở cơ sở của

TS. Phạm Lan Oanh và TS. N guyễn Hoàng.

Nội dung cuô'n sách gồm hai chương, cung cấp tư

liệu, kiến thức chung về lễ hội truyền thông ỏ Việt

Nam từ loại hình, giá trị lễ hội và thực trạng quản lý,

tổ chức lễ hội hiện nay ở cơ sở; về nguyên tắc, quy trình

quản lý, tổ chức lễ hội truyền thông và một số văn bản

quản lý nhà nước về lễ hội truyền thông.

Xin giới thiệu cuô’n sách cùng bạn đọc.

Hà Nội, tháng 9 năm 2015

NHÀ XUẤT BẦN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - sự THẬT

Chương I

N H Ữ N G VẤN Đ Ể C H UNG VỀ l Ễ h ộ i

1. Khái niệm lế hội

Lễ hội là một hiện tượng văn hoá dân gian tổng

thể, “là một hình thức diễn xướng tâm linh”. Tính

tổng thể của lễ hội không phải là thực thể “chia

đôi” như người ta quan niệm mà nó hình thành

trên cơ sở một cốt lõi nghi lễ, tín ngưỡng nào đó

(thường là tôn thò một vị thần linh - lịch sử hay

một thần linh nghề nghiệp nào đó) rồi từ đó nảy

sinh và tích hỢp các hiện tượng văn hoá phái sinh

để tạo nên một tổng thể lễ hội cho nên trong lễ hội

phần lễ là phần gốc rễ chủ đạo, phần hội là phần

phát sinh tích hợph

Lễ hội là sinh hoạt ván hóa gắn với đòi sống

tinh thần của cư dân sông trên dải đất Việt Nam

hàng ngàn năm nay. Trong một năm, thường vào

1. Xem Ngô Đức Thịnh: “Mấy nhận thức về lễ hội cổ

truyền”, tạp chí Văn hóa nghệ thuật, sô 11-1999, tr.37.

những thòi khắc nhất định thuộc mùa Xuân và

mùa Thu, khắp nơi tưng bừng không khí lễ hội. Dù

ở miền núi cao, đồng bằng hay hải đảo xa xôi, mỗi

khi cộng đồng tổ chức lễ hội là dịp người người,

nhà nhà náo nức đón chờ và hưởng ứng. Đồng bào

các dân tộc thiểu sô" hay người Kinh, cũng đều có

chung tâm trạng hưng phấn cộng đồng này. Lễ hội

cũng có thể diễn ra ở những nơi cụ thể nào đó vào

mùa Hạ hoặc mùa Đông. Tuy nhiên, những thời

điểm đó không phổ biến bằng lễ hội mùa Xuân,

mùa Thu. cổ nhân đã tổng kết quy luật gắn với tứ

thời bát tiết trong năm; Xuân sinh, Hạ trưởng,

Thu liễm, Đông tàn, cũng cho ta những thông tin

gần gũi với vòng quay mùa màng, chu trình sinh

trưởng của cây trồng (và phần nào đúng với vật

nuôi, vạn vật... ỏ lớp nghĩa khác). Hiểu theo nghĩa

rộng, tổng kết trên cũng chẳng xa với vòng đòi của

mỗi người có sinh, trụ, dị, diệt hay sinh, lão, bệnh,

tử. Và, thời gian trôi đi, không gian thay đổi,

nhưng vòng tuần hoàn vũ trụ vẫn chuyển luân và

mùa đến, mùa đi, kế nối dài vô cùng vô tận. Bởi

thế, khát vọng trường sinh, sự tưng bừng náo

nhiệt sẽ mãi mãi xoay vòng cùng con người và đất

trời, để cho lễ hội cứ đến hẹn là gặp, cứ đến dịp là

vui mừng náo nức y như ngày xửa ngày xưa cho tối

tận bây giò và mai sau.

Thòi gian lễ hội là thời gian thư giãn nghỉ ngơi,

nhịp dừng thú vị để chu kỳ mới đưỢc hình thành.

8

Lễ hội, theo quan niệm của đồng bào Tây Nguyên là

mùa Ning Nơng, đưỢc Ăn năm uống tháng. Người

Việt cổ truyền cũng quan niệm rằng Tháng Giêng là

tháng ăn chơi, tháng hai trồng đậu, tháng ha trồng

cà... Lễ hội mùa Xuân tuy trời vẫn còn chút se lạnh

của mùa Đông, nhưng đã tràn đầy cái nồng nàn ấm

áp của một mùa mới, năm mới đầy hứa hẹn.

Tháng tám mùa Thu, gió heo may, cây trái cho

thu hoạch, quả ngọt trĩu cành, nắng vàng óng ả,

mùa cô"m mới, trẻ em trông trăng đón Trung Thu,

người già trông trăng nhìn thòi tiết đoán kết quả

thu hoạch mùa màng, trai gái vui đối đáp giao

duyên... tất cả đều hòa chung với đất trời mênh

mang rộng mở. Bởi thế chăng, mà mùa Thu lễ hội

cho ta không khí gần gũi, thấm đưỢm, hữu tình!

Lễ hội đưỢc đánh giá là hoạt động cộng đồng đa

màu sắc, hấp dẫn lâu bền nhất trong tất cả các

sinh hoạt chung của mọi người dân. Tính tổng

hỢp, đa diện, đa dạng của các sinh hoạt gồm chứa

trong hoạt động lễ hội đưỢc các nhà nghiên cứu

văn hóa gọi đó là tính nguyên hỢp của văn hóa

dân gian/văn hóa dân tộc Việt Nam. Ây là bởi

những tinh túy, tinh hoa của Đất và Người đều tụ

hội về dịp lễ hội. Ây là bởi vì lễ hội nào cũng chứa

trong nó hạt nhân thiêng liêng với nhiều ước vọng

con người muôn gửi gắm tới tầng trên cao xanh

đầy huyền bí và gắn với lịch sử mấy ngàn năm

dựng nước, giữ nưốc của các thế hệ con người

Việt Nam. Tính thiêng trong lễ hội trở thành hạt

nhân quan trọng gắn kết cộng đồng thành một

khối thông nhất cùng chung ước vọng.

Ngày địa phương mở hội là ngày quan trọng

của cộng đồng, được gọi là vào đám, đóng đám. về

cơ bản, lễ hội truyền thông bao gồm phần lễ và

phần hội. Phần lễ thường diễn ra ở những nơi

trang nghiêm như: trong hoặc trưốc cửa đình, đền,

miếu, chùa,... mục đích là để giao tiếp với thần

linh sông núi, các vị thần tổ nghề, anh linh các vỊ

anh hùng dân tộc, mời tổ tiên các dòng họ về dự

hội vồi dân làng. Lễ hội làng hội tụ sức mạnh

thiêng liêng của cả tròi đất, non sông, tổ tiên và

con cháu. Bởi thế, trong dịp lễ hội, thông qua các

nghi thức tín ngưỡng tôn giáo để ước mong nối sỢi

dây giao cảm giữa Thần - Người - Cộng đồng và

thể hiện nguyện vọng của họ trong không gian và

thời gian thiêng liêng.

Phần hội về cơ bản diễn ra nhằm thỏa mãn nhu

cầu vui chơi giải trí và sáng tạo văn hóa của con

người thông qua các trò chơi dân gian, địa điểm

diễn ra thường ở những bãi đất trống, vạt rừng,

trên mặt nưốc ao, hồ, sông, những nơi rộng rãi,...

Lễ hội rất có ý nghĩa trong đời sống xã hội.

Thông qua lễ hội, các giá trị truyền thống của làng

quê như ý thức về cội nguồn, tổ tiên dân tộc, tưởng

nhớ các anh hùng dân tộc,...; ý thức về đồng loại,

cố kết con người trong cộng đồng, ý thức giữ gìn

10

nét đẹp thuần phong mỹ tục của cộng đồng đưỢc

gia tăng, củng cố. Con người trong thời điểm diễn

ra lễ hội dường như hòa đồng, xích lại gần nhau

hơn, giao lưu cởi mở chân thành hơn. Lễ hội cũng

góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa

phương, là sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo thu

hút du khách gần xa.

Tóm lại, đối với người dân, tổ chức lễ hội hằng

năm là nhu cầu thiết yếu, một đòi hỏi tinh thần

nhằm đến đích:

- Tưởng nhố công đức các vỊ anh hùng dân tộc,

danh nhân văn hóa, các liệt sĩ, các bậc tiền bốì đã

có công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tinh

thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

- Đáp ứng nhu cầu văn hóa, tín ngưỡng, tham

quan các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng

cảnh, các công trình kiến trúc nghệ thuật, cảnh

quan thiên nhiên và các nhu cầu đa dạng chính

đáng khác của nhân dân.

Tuy thế, lễ hội cũng có những hạn chế nhất

định, đó là những hệ lụy phái sinh do chúng ta

nhận thức chưa đúng về lễ hội khiến giá trị đích

thực của lễ hội bị mất đi hoặc giảm sút, sai lệch,

méo mó. Xu hướng thương mại hóa lễ hội, lãng

phí, thậm chí dung tục hóa lễ hội đi cùng với tệ

nạn bói toán, cờ bạc, hiện đại hóa lễ hội vô căn cứ,

lợi dụng lễ hội để trục lợi diễn ra khá thường

11

xuyên ỏ những mức độ khác nhau gây ra sự ô

nhiễm môi trường nhân văn và môi trường sinh

thái ở phạm vi rộng lớn.

2. Môt sô khái niệm liên quan đến lể hội

a) Tính thiêng

ơ các làng xã, việc thờ cúng thần linh đưỢc coi

là quan trọng và linh thiêng, luôn gắn với lễ hội

một cách chặt chẽ, nó đưỢc hòa quyện vào các

hành động của lễ hội, nhằm củng cố tâm linh, tín

ngưỡng của cộng đồng, là sỢi dây liên kết giữa

thần linh và con người ở làng xã^

Theo Từ điển tiếng Việt, thì thiêng-. “Có phép lạ

làm đưỢc những điều khiến người ta phải kính sỢ,

theo mê tín” và thiêng liêng-. “ĐưỢc coi là cao quý,

đáng trân trọng hơn hết”^.

Yếu tô" thiêng là hạt nhân cốt lõi của mỗi lễ hội.

Nhân dân tin tưởng những người/vật/đồ vật đó đã

trở thành Thần thánh, không chỉ có thể phù hộ

cho họ trong những khía cạnh mà sinh thời ngưòiy

vật/đồ vật đó đã thực hành: chữa bệnh, làm nghề

1. Xem Đặng Nghiêm Vạn: “Lễ hội - Thái độ ứng xử xưa

và nay”, trong sách Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội

hiện đại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, tr.275-282.

2. Hoàng Phê (Chủ biên): Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà

Nắng - .Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng,

2009, tr.909.

12

sản xuất, đánh giặc... mà còn có thể giúp họ vượt

qua những khó khăn đa dạng hơn, phức tạp hơn

của đời sông. Chính tính "thiêng" ấy đã trở thành

chỗ dựa tinh thần cho nhân dân trong những thời

điểm khó khăn, cũng như tạo cho họ những hy

vọng vào điều tốt đẹp sẽ đến.

ơ mỗi một di tích, lễ hội, người dân bao giờ cũng

phải tìm ra đưỢc một lý do mang tính "thiêng" nào

đó của vị “Thần thánh”. Đó là người anh hùng đánh

giặc bị tử thương, ngã xuống mảnh đất ấy, lập tức

được mối đùn lên thành mộ. Đó là nơi một người

anh hùng bỗng dưng hiển thánh, bay về trời. Cũng

có khi đó chỉ là một bờ sông, nơi có một xác người

chết đuối, đang trôi bỗng nhiên dừng lại, không trôi

nữa; dân vớt lên, chôn cất, hiển linh, đưỢc dân thờ

phụng... Cũng có khi lễ hội chỉ hình thành nhằm

ngày sinh, ngày mất của một người có công với làng,

vối nước, ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác (có người

chữa bệnh, có người dạy nghề, có người đào mương,

có người trị thủy, có người đánh giặc...).

b) Kiêng, kỵ, hèm

Để tính thiêng trong lễ hội luôn được giữ gìn,

củng cố, người xưa đã nhận ra hạt nhân quan

trọng này luôn luôn cần có chê độ bảo vệ lâu dài.

Một trong những phương cách bảo vệ hữu hiệu

đưỢc sự chấp thuận của cộng đồng trong lịch sử tới

ngày nay chính là những kiêng, kỵ, hèm.

13

Chính người nông dân với quan niệm có thờ có

thiêng, có kiêng có lành đã góp phần tồn lưu

những kiêng kỵ, hèm tục trong đòi sống của họ.

Họ bị những điều kiêng kỵ của thế hệ trước quy

định và điều chỉnh trong mọi hoạt động thường

ngày và cũng chính họ là lực lượng tiếp tục duy trì

và phổ biến những điều kiêng kỵ đó cho thế hệ nốì

tiếp. Hành trình này lâu dần trở thành tập quán.

- Kiêng

Kiêng là sự dè chừng, cảnh giác của mọi người

trong cộng đồng đôl với những sự vật, hiện tượng

diễn ra trong cuộc sống. Kiêng giúp người ta sốhg

an toàn hơn nhờ những lời cảnh báo/khuyên nhủ

của thế hệ tiền nhân.

-K ỵ

Kỵ cũng là sự tránh né, dè chừng nhưng

được diễn ra có ý thức cao hơn kiêng. Như vậy,

trong sự kỵ đã bao hàm cả những yếu tố kiêng.

Kỵ còn đưỢc hiểu là cấm kỵ - nghiêm cấm

không đưỢc vi phạm. Nếu cố làm trái đi, người

đó sẽ phải gánh chịu hậu quả xấu. Thông

thường, những điều cần kiêng trong cuộc sông

diễn ra nhiều và phổ biến hơn những điều cần

kỵ. Người ta thường kiêng một số vật và đồ vật

nhất định, ví dụ như kiêng mang đồ vật sắc

nhọn, vũ khí theo mình. Bên cạnh đó, một số

đôl tưỢng là người và vật cũng thuộc loại phải

kiêng như người mới có tang, phụ nữ trong thời

14

gian mang thai, những người làm nghề giết mổ.

Một sô" hành động trong ăn uô"ng, sinh hoạt, lao

động sản xuất, vui chơi, tế tự cũng bị kiêng né

khá cụ thể. Việc kiêng gọi tên húy của các vị

thần, vua chúa, tổ tiên, người cao tuổi trong

dòng họ... cũng đưỢc thực hành với thái độ

nghiêm cẩn và đề phòng rất thận trọng.

Từ thực tế cuộc sông, những kiêng kỵ thường

gặp được người dân xử lý uyển chuyển bằng cách

nói lái, nói chệch hoặc tìm từ đồng nghĩa thay thế

cho những từ cần phải tránh là điều rất phổ biến.

Ví dụ: Con cháu kiêng không nói tên ông bà,

cha mẹ. Nếu trong cuộc sông thường ngày có

những tiếng trùng với tên của các bậc này, con

cháu sẽ gọi tránh đi, hoặc tìm một tiếng đồng

nghĩa để thay vào. Chẳng hạn Thanh Đàm đưỢc

gọi là Thanh Trì, thịt đông gọi là thịt đặc, hoàng

gọi là huỳnh, hoa gọi là huê, xuân gọi là xoan, quả

bưởi gọi là quả bòng, V.V..

Đối với tổ tiên là các vị đã khuất, sự kiêng tên

càng đưỢc giữ gìn hơn. Khi con cháu làm một điều

gì không phải, bị người khác gọi tên ông bà, cha

mẹ đã khuất ra mà réo chửi thì bị coi là một điều

tủi hổ, sỉ nhục cho gia đình và dòng họ, có thể gây

nên thù oán sâu đậm. Để tránh cho người khác

khỏi xúc phạm đến tổ tiên mình, mọi người đều

giữ gìn trong điều án nếp ở, cố làm sao không gây

bất cứ sự đụng chạm nào.

15

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!