Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hội thảo khoa học cấp quốc gia 80 năm đề cương về văn hoá Việt Nam (1943 - 2023) khởi nguồn và động
PREMIUM
Số trang
635
Kích thước
4.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
871

Hội thảo khoa học cấp quốc gia 80 năm đề cương về văn hoá Việt Nam (1943 - 2023) khởi nguồn và động

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

5

“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943 -

NỀN TẢNG LÝ LUẬN VÀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN

VĂN HÓA, XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM

NGUYỄN VĂN HÙNG*

ách đây 80 năm, vào tháng 2/1943, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông

qua bản Đề cương về văn hóa Việt Nam1

, một văn kiện quan trọng do

Tổng Bí thư Trường Chinh chấp bút soạn thảo. Ra đời trong bối cảnh của

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Đề cương là cương lĩnh đầu tiên của

Đảng ta về văn hóa, xác lập văn hóa là một trong ba mặt trận (chính trị,

kinh tế, văn hóa). Thời điểm và bối cảnh ra đời của Đề cương về văn hóa

Việt Nam đã cho thấy tư duy, tầm nhìn và sự quan tâm sâu sắc của Đảng

ta trong phát triển văn hóa. Từ điểm khởi nguồn này, trải qua tiến trình

lịch sử với rất nhiều biến động, việc phát triển các giá trị mang tính cương

lĩnh của Đề cương vẫn giữ nguyên sức sống và có vai trò quan trọng đối với

sự nghiệp phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Vì vậy, ngày hôm nay,

tại Hội thảo quan trọng này, chúng ta sẽ cùng nhìn lại và khẳng định nền

tảng lý luận, giá trị, nguyên tắc cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam,

từ đó tìm ra những định hướng, giải pháp góp phần khơi dậy khát vọng

cống hiến, tạo động lực chấn hưng văn hóa, phát triển toàn diện con người

Việt Nam trong bối cảnh mới nhằm hiện thực hóa Văn kiện Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, triển khai có hiệu quả Kết luận của

đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

_____________

* Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

1. Trong một số trường hợp chúng tôi gọi tắt là Đề cương.

C

6 80 NĂM ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM (1943-2023)...

năm 2021 và cụ thể hóa lộ trình triển khai Chiến lược phát triển văn hóa

đến năm 2030.

1. Giá trị lý luận của “Đề cương về văn hóa Việt Nam”

Ngay trong phần mở đầu, với việc xác định rõ phạm vi và nội hàm của

văn hóa bao gồm ba thành tố cơ bản là tư tưởng, học thuật và nghệ thuật, Đề

cương về văn hóa Việt Nam thể hiện tư duy mạch lạc và sự tiến bộ vượt thời

đại trong bối cảnh xã hội Việt Nam vào thập niên 40 của thế kỷ XX. Không

dừng lại ở đó, trên cơ sở vận dụng phương pháp luận mácxít, Đề cương còn

khẳng định tính tất yếu của mối quan hệ biện chứng giữa các thành tố cơ bản

của văn hóa cũng như giữa văn hóa với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

Trong khi các hoạt động về tư tưởng, học thuật và nghệ thuật thẩm thấu, bổ

sung, chi phối lẫn nhau để tạo nên tổng thể nền văn hóa dân tộc thì toàn bộ

nền văn hóa đó cũng chính là một “mặt trận”, có mối quan hệ ngang hàng,

hữu cơ, mật thiết với mặt trận kinh tế và chính trị.

Luận điểm “văn hóa là một mặt trận” được coi là tuyên ngôn của Đảng

về sứ mệnh và vị thế của văn hóa, đồng thời cũng thể hiện tầm nhìn và

cách tiếp cận tổng thể của Đảng ta đối với việc giải quyết các yêu cầu và

mục tiêu lớn của đất nước. Trong bối cảnh lịch sử đương thời, luận điểm

này là cơ sở quan trọng để tập hợp, phát huy sức mạnh quần chúng và giới

trí thức, kiến tạo nền tảng và nguồn sức mạnh tinh thần cùng với các mặt

trận quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, góp phần phục vụ sự nghiệp

giải phóng dân tộc.

Từ nhận thức căn bản này, đối với yêu cầu xây dựng và phát triển đất

nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa, Đề cương khẳng định mặt trận văn hóa

sẽ tiếp tục phát huy vai trò then chốt của mình thông qua cuộc cách mạng văn

hóa với ba nguyên tắc vận động căn bản, gồm: dân tộc hóa, đại chúng hóa và

khoa học hóa. Ngoài mối quan hệ khăng khít, hữu cơ với các lĩnh vực khác của

đời sống xã hội, nền văn hóa mới mà Đề cương xác lập còn thể hiện giá trị lý

luận cấp tiến khi đặt con người ở vị trí trung tâm. Vị thế của con người trước

hết nằm ở vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác văn hóa, văn nghệ. Quan

trọng hơn nữa, con người, hay nói chính xác hơn là quần chúng nhân dân,

“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943... 7

chính là chủ thể của văn hóa, là lực lượng sáng tạo, trao truyền, gìn giữ và

phát huy các giá trị văn hóa. Nền văn hóa mới mà Đảng ta hướng tới chính là

nền văn hóa thuộc về nhân dân và do nhân dân xây dựng, phát triển vì cuộc

sống lành mạnh, phong phú của nhân dân.

Tiếp đó, từ góc nhìn của chủ nghĩa Mác, Đề cương về văn hóa Việt Nam

coi văn hóa như một lĩnh vực không ngừng biến đổi, với sự nối tiếp liên tục từ

quá khứ, đến hiện tại và tương lai. Văn hóa hình thành và phát triển cùng với

sự hình thành và phát triển của con người. Văn hóa bám rễ vào cội nguồn lịch

sử và không ngừng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để bồi đắp và làm giàu

thêm bản sắc văn hóa dân tộc. Các giá trị văn hóa, ngay cả giá trị truyền

thống cũng không tồn tại một cách bất biến mà không ngừng được bổ sung và

tái định hình để phù hợp với cuộc sống đang diễn ra. Việc lựa chọn các giá trị

phù hợp để kế thừa dựa trên tinh thần khách quan và tư duy phê phán là một

yêu cầu quan trọng đối với phát triển văn hóa. Thái độ khoa học, tiến bộ này

của Đề cương cung cấp cho chúng ta một nền tảng lý luận quan trọng về động

năng và tính kế thừa của văn hóa.

Với những tư tưởng, quan điểm ngắn gọn, súc tích trên đây, Đề cương về

văn hóa Việt Nam “xứng đáng là một văn kiện đặt nền móng, mở đường cho

việc xây dựng lý luận văn hóa cách mạng Việt Nam”1

. Ba năm sau ngày Đề

cương ra đời, từ điểm tựa lý luận của văn kiện này, tại Hội nghị Văn hóa

toàn quốc lần thứ nhất khai mạc vào ngày 24/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh

nhấn mạnh hơn nữa vai trò định hướng, dẫn dắt của văn hóa đối với sự phát

triển của đất nước, dân tộc thông qua lời khẳng định: “Văn hóa phải soi

đường cho quốc dân đi”. Kể từ thời điểm này cho đến năm 1975, đường lối

văn hóa kháng chiến - kiến quốc dần hình thành và hoàn thiện dựa trên nền

tảng căn bản mà Đề cương về văn hóa Việt Nam đã đề ra.

Trong công cuộc xây dựng đất nước sau ngày giải phóng, đặc biệt kể từ

khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, nhận thức của Đảng về vai trò,

_____________

1. Phạm Quang Nghị: “Đề cương văn hóa Việt Nam và công cuộc xây dựng, phát triển

nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, in trong kỷ yếu Hội thảo 60 năm

Đề cương văn hóa Việt Nam (1943-2003), Viện Văn hóa - Thông tin, 2004, tr.43.

8 80 NĂM ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM (1943-2023)...

vị thế của văn hóa cũng như các mục tiêu phát triển văn hóa cụ thể đã có

những chuyển biến rõ rệt trước yêu cầu và đòi hỏi của tình hình mới. Tuy

vậy, các nguyên lý và định hướng căn bản trong chủ trương, đường lối của

Đảng về văn hóa vẫn thể hiện sự kiên định với nền tảng lý luận và tinh thần

của Đề cương về văn hóa Việt Nam. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được trình bày tại Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta đã xác định, nền văn hóa mà chúng ta

xây dựng là “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; là một trong

sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tiếp đó, quan

điểm “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động

lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” được nhấn mạnh trong Báo cáo

của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về các văn kiện trình Đại

hội VIII của Đảng (năm 1996).

Năm 1998, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc được thông qua như một bản chiến lược về phát triển

văn hóa Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với

việc đề ra 5 quan điểm chỉ đạo và 10 nhiệm vụ cụ thể, Nghị quyết Trung ương 5

khóa VIII là sự kế thừa sâu sắc những quan điểm của Đảng trong Đề cương

về văn hóa Việt Nam và phát triển những giá trị lý luận này lên một tầm cao

mới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Cụ thể, so với Đề cương

về văn hóa Việt Nam năm 1943, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã có

quan niệm rộng hơn, toàn diện hơn, bao quát hơn về văn hóa, về văn hóa và

phát triển, về di sản văn hóa, về bản sắc, đặc trưng văn hóa Việt Nam, về xây

dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc...

Tại Đại hội lần thứ IX, Đảng ta nhấn mạnh: “xây dựng nền văn hóa tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát

triển kinh tế - xã hội”. Quan điểm này được làm sâu sắc hơn trong Văn kiện

Đại hội lần thứ X của Đảng, đặc biệt là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).

Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về

xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943... 9

tộc, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban

hành Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 về Xây dựng và phát triển văn

hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.

Nghị quyết khẳng định mục tiêu “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc

Việt Nam”. Năm 2020, Bộ Chính trị đã ra Kết luận số 76-KL/TW về việc tiếp

tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương

khóa XI, trong đó nhấn mạnh: “xây dựng và phát triển văn hóa, con người là

nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn hóa là hồn

cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội

sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc,

vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Tại Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh xây dựng văn hóa trong

chính trị và kinh tế, đây vẫn là một trong những vấn đề cơ bản của đất

nước giai đoạn mới. Muốn phát triển bền vững đất nước, không chỉ văn hóa

phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội, mà phải xây dựng

và phát triển văn hóa, con người - tạo sức mạnh nội sinh cho sự phát triển

bền vững.

Như vậy, trải qua 80 năm, các luận điểm của Đề cương xác định về vai

trò, sứ mệnh của văn hóa như nguồn lực nội sinh cho phát triển; sự gắn kết

của văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội; ý nghĩa trung tâm của con người

trong phát triển văn hóa; và các nguyên tắc vận động của văn hóa đã được

chứng minh là những giá trị nền tảng cốt lõi, định hình đường lối và chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trước những biến động

không ngừng của bối cảnh lịch sử và các yêu cầu phát triển mới liên tục xuất

hiện, các luận điểm của Đề cương vẫn còn nguyên giá trị, sức ảnh hưởng của

mình và tiếp tục được vận dụng, kế thừa, bổ sung và hoàn thiện trong hệ

thống các văn kiện của Đảng về văn hóa. Quá trình chuyển dịch từ ba nguyên

tắc dân tộc, đại chúng, khoa học của nền văn hóa cách mạng cho đến các giá

trị tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam trong giai đoạn

phát triển đất nước và hội nhập quốc tế cho thấy vị thế và tầm ảnh hưởng của

Đề cương về văn hóa Việt Nam như một cương lĩnh khởi nguồn cho việc xác

10 80 NĂM ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM (1943-2023)...

lập và hoàn thiện tư duy lý luận về phát triển văn hóa, phát triển con người

ở Việt Nam.

2. Giá trị thực tiễn của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” trong phát

triển văn hóa, xây dựng con người

Đề cương về văn hóa Việt Nam không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà

còn có ý nghĩa lớn lao trong việc chỉ đạo hoạt động văn hóa - xã hội ở nước

ta. Việc vận dụng và phát huy tinh thần, luận điểm, nguyên tắc về phát triển

văn hóa được đặt ra trong Đề cương với ý nghĩa như một cương lĩnh về văn

hóa của Đảng đã thực sự mang lại nhiều chuyển dịch và kết quả quan trọng

trong sự nghiệp phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong suốt tám

thập niên qua.

- Mối quan hệ giữa các chủ thể văn hóa từng bước được điều chỉnh theo

hướng hài hòa, lành mạnh giúp phát huy hiệu quả vai trò lãnh đạo của Đảng,

sự quản lý của Nhà nước và chủ thể sáng tạo của nhân dân

Ngay từ khi ra đời, với việc đặt con người ở vị trí trung tâm của phát triển

văn hóa, Đề cương về văn hóa Việt Nam là cơ sở quan trọng để tập hợp, phát

huy sức mạnh quần chúng và giới trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng để cống

hiến sức mình cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Qua tổng kết

lý luận và tình hình thực tiễn, mối quan hệ giữa các chủ thể văn hóa ở nước

ta từng bước được điều chỉnh theo hướng hài hòa và lành mạnh hơn thông qua

việc sử dụng hợp lý các công cụ quản lý hiện đại và đổi mới cơ chế, phương

thức quản lý.

Với vai trò là người lãnh đạo sự nghiệp văn hóa, Đảng ta đã ban hành

nhiều chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, kết luận nhằm thể chế hóa

các quan điểm, tạo lập nền tảng và định hướng cho việc xây dựng khuôn khổ

chính sách văn hóa ở Việt Nam. Trong khi đó, Nhà nước từ vị trí là người chỉ

huy đã chuyển sang vai trò của nhà quản lý và bảo trợ. Các cơ quan quản lý

nhà nước về văn hóa cũng thực hiện việc phân cấp, phân quyền trên cơ sở bảo

đảm nguyên tắc thống nhất về hành chính quốc gia và đề cao tính tự chủ của

địa phương trên nền tảng lợi thế so sánh, năng lực cạnh tranh. Bên cạnh đó,

các cơ chế và phương tiện để thúc đẩy và hỗ trợ sự tham gia của nghệ sĩ, các

“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943... 11

nhà quản lý văn hóa và người dân nói chung vào các đối thoại chính sách đã

được xây dựng và phát triển.

Từ sự chuyển dịch mang tính cấu trúc này, vai trò của hệ thống chính

sách, pháp luật được đề cao ở nước ta. Các văn bản pháp luật với vai trò là

công cụ điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể trong từng lĩnh vực cụ thể

của khu vực văn hóa được chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Trong lĩnh vực

văn hóa, hiện Việt Nam đã có 5 luật (Luật điện ảnh, Luật di sản văn hóa,

Luật quảng cáo, Luật sở hữu trí tuệ, Luật thư viện), 50 nghị định, 14 quyết

định của Thủ tướng Chính phủ và trên 100 thông tư, thông tư liên tịch được

điều chỉnh trực tiếp

1

. Các đạo luật này đã từng bước tạo ra một khuôn khổ

pháp lý tương đối nhất quán và hợp lý, tạo lập môi trường vận hành thuận lợi

cho các hoạt động văn hóa. Đặc biệt, các văn bản hiện hành đã góp phần thể

chế hóa và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền

sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng, tiếp cận các giá trị văn hóa, tham

gia vào đời sống văn hóa của người dân.

- Phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam được phát huy, hướng tới

phát triển con người toàn diện

Mỗi cá nhân công dân Việt Nam, dù ở vị trí lãnh đạo, quản lý, thực hành

sáng tạo hay công chúng, đều là nhân tố có sức ảnh hưởng đến quá trình phát

triển văn hóa. Phát triển con người và phát triển văn hóa là hai mục tiêu gắn

kết, không tách rời nhau. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con

người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Nền tảng tinh thần của

Đề cương trong nhiều thập kỷ đã được bổ sung và phát triển qua các văn kiện

sau này của Đảng, một số chuẩn mực tư tưởng, đạo đức, lối sống của con người

Việt Nam, bao gồm cả các giá trị truyền thống (yêu nước, nhân ái, đoàn kết...)

và các giá trị hiện đại (năng lực sáng tạo, tôn trọng pháp luật...), đã từng bước

được thể chế hóa, đưa vào các văn bản pháp luật, quy ước, hương ước làng, xã,

quy chế, quy tắc, nội quy của các cơ quan, đơn vị, tổ chức. Các hoạt động văn

hóa - nghệ thuật, các chương trình nghiên cứu, v.v. được mở rộng nhằm nhận

_____________

1. Xem Lê Thanh Liêm: Đánh giá về pháp luật cho phát triển văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể

thao và Du lịch, Hà Nội, 2022.

12 80 NĂM ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM (1943-2023)...

diện, tuyên truyền và nâng cao nhận thức của xã hội về hệ giá trị văn hóa và

chuẩn mực của con người Việt Nam.

Công tác nghiên cứu, giáo dục, đào tạo được chú trọng, trong đó kết hợp

giữa dạy chữ, dạy kỹ năng, giáo dục nghệ thuật, năng lực cảm thụ thẩm mỹ

với rèn luyện thể chất, góp phần nâng cao trí tuệ, cải thiện tầm vóc con người

Việt Nam. Ngoài hệ thống giáo dục chính quy, hoạt động của hệ thống thiết

chế văn hóa cơ sở cũng được đầu tư như một phương thức để nâng cao trình

độ thẩm mỹ, phát triển kỹ năng và tri thức cho người dân ở nhiều lứa tuổi

khác nhau. Đặc biệt, hệ thống thiết chế văn hóa được Nhà nước chú trọng đầu

tư ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã góp phần

không nhỏ vào việc thu hẹp khoảng cách trong hưởng thụ văn hóa giữa các bộ

phận cư dân, giúp bảo đảm nguyên tắc công bằng, dân chủ hóa trong phát

triển văn hóa.

Môi trường văn hóa được cải thiện, đặc biệt là tại các thiết chế văn hóa,

các đơn vị, tổ chức văn hóa. Kết quả này đóng góp không nhỏ vào việc phát

huy năng lực của chủ thể văn hóa và nâng cao chất lượng của sản phẩm, dịch

vụ văn hóa. Hơn thế nữa, việc xây dựng môi trường văn hóa được quan tâm

một cách thực chất và có chiều sâu đã và đang tạo ra diện mạo mới cho đời

sống văn hóa cơ sở, kiến tạo các quan hệ hợp tác lành mạnh, phát huy năng

lực sáng tạo và nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của người dân.

- Văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy hiệu quả, đi cùng với

việc đẩy mạnh giao lưu, hội nhập văn hóa quốc tế

Việt Nam lưu giữ hệ thống di sản văn hóa và tài nguyên thiên nhiên

phong phú, đa dạng. Vận dụng các nguyên tắc của Đề cương về văn hóa Việt

Nam trong suốt những thập niên qua, việc kế thừa và phát huy các giá trị

truyền thống của văn hóa Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực. Cơ chế

xử lý hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh

tế đã từng bước được xác lập và vận hành trên thực tế. Nhiều di sản văn hóa

của Việt Nam được ghi danh vào danh mục quốc gia, quốc tế như một cách ghi

nhận và bảo tồn các giá trị lịch sử, giáo dục và sự đặc sắc về nghệ thuật. Bên

cạnh đó, di sản văn hóa đã và đang trở thành một yếu tố cốt lõi của quá trình

chuyển hóa nguồn lực mềm văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa thông qua

“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943... 13

xây dựng, phát triển sản phẩm du lịch và là mấu chốt quan trọng tạo nên sức

hấp dẫn của điểm đến du lịch.

Trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, vai trò của

cộng đồng chủ thể được phát huy. Nhà nước tham gia vào quá trình này với

tư cách là người bảo trợ và tạo điều kiện thông qua việc ban hành các cơ chế

ưu đãi, khuyến khích và đãi ngộ đối với các cá nhân và cộng đồng liên quan.

Đi cùng với việc bảo tồn văn hóa truyền thống, tiếp thu có chọn lọc tinh

hoa văn hóa nhân loại là một xu thế tất yếu, đặc biệt được đẩy mạnh trong

bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Trong thời gian qua, từ việc đóng cửa với

thế giới, Việt Nam đã có sự chuyển dịch tích cực sau khi ban hành chủ trương

đổi mới. Chúng ta đã chủ động mở cửa hợp tác văn hóa với các nước, thực

hiện đa dạng hóa các hình thức văn hóa đối ngoại, mở cửa thị trường văn

hóa cho các doanh nghiệp nước ngoài.... Trong suốt quá trình này, nhiều giá

trị văn hóa của các nước trong khu vực và trên thế giới đã từng bước du nhập

vào Việt Nam, được người dân đón nhận và trở thành một phần không thể

thiếu trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, thông qua vai trò của các tổ chức

quốc tế, đội ngũ cán bộ văn hóa, giới thực hành và các nhà nghiên cứu văn

hóa Việt Nam đã có cơ hội tham gia các hoạt động trao đổi văn hóa, nâng cao

năng lực và hiểu biết về văn hóa các nước, từ đó rút ra các bài học để áp dụng

trong nước.

Ở chiều hướng ngược lại, nhiều hoạt động nhằm giới thiệu và quảng bá

văn hóa Việt Nam, nâng cao thương hiệu và vị thế của quốc gia trên trường

quốc tế cũng được thực hiện (Tuần lễ văn hóa Việt Nam, Ngày văn hóa Việt

Nam và các sự kiện khác). Việc khai thác các giá trị văn hóa truyền thống để

phát triển các sản phẩm văn hóa phục vụ xuất khẩu cũng được đẩy mạnh như

một cách thức để gia tăng giá trị kinh tế của văn hóa và quảng bá hình ảnh

của đất nước.

- Việc gắn kết văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội có chuyển dịch

tích cực về nhận thức và hành động

Việc hiện thực hóa quan điểm của Đề cương về văn hóa Việt Nam về mặt

trận văn hóa tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với mặt trận chính trị và

kinh tế luôn được Đảng ta chú trọng. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đã

14 80 NĂM ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM (1943-2023)...

khẳng định: “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý

thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển

bền vững và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên

toàn dân, trước hết là các doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng và phát triển

các thương hiệu Việt Nam có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế”.

Xây dựng văn hóa trong kinh tế là một bước tiến cả trong tư duy lý luận của

Đảng cũng như trong triển khai tổ chức thực hiện ở nước ta, nhằm tạo sự

gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa văn hóa và kinh tế; có giá trị thiết thực và ý

nghĩa lâu dài thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển bền vững trong những

năm tới.

Từ nhận thức này, các hành động cụ thể đã được thực hiện nhằm khai

thác tiềm năng kinh tế của văn hóa, phát huy tối đa vai trò và đóng góp của

lĩnh vực này. Minh chứng điển hình cho nỗ lực này chính là việc ban hành

Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020,

tầm nhìn đến năm 2030 vào năm 2016. Chiến lược đã đánh dấu một bước tiến

mới trong việc kiến tạo môi trường thể chế thuận lợi cho các ngành công

nghiệp văn hóa khai thác và chuyển hóa các nguồn tài nguyên văn hóa thành

các sản phẩm và dịch vụ có sức hấp dẫn. Các bộ, ngành, đặc biệt là Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch, đã tích cực triển khai công tác xây dựng, hoàn thiện

thể chế, chính sách, pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý, khuyến khích

phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.

Những thay đổi tích cực về thể chế chính sách, đặc biệt là các chính

sách kinh tế trong văn hóa và khuyến khích sự tham gia của các thành

phần sở hữu, sự đầu tư nguồn vốn trong và ngoài nước vào các ngành công

nghiệp văn hóa đã thúc đẩy thị trường công nghiệp văn hóa Việt Nam có

những bước tiến mới, mang lại những đóng góp nhất định vào tăng trưởng

GDP của cả nước. Theo thống kê, so với mức GDP chiếm 2,68% năm 2015,

các ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam ước đạt 3,61% GDP cả nước

năm 20181

. Sự thay đổi này cho thấy, các ngành công nghiệp văn hóa bước

_____________

1. Tham khảo Nguyễn Thị Thu Phương (Chủ biên): Định vị các ngành công nghiệp văn

hóa trong phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022.

“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943... 15

đầu phát huy hiệu quả tài nguyên văn hóa và chuyển hóa thành sức mạnh

mềm văn hóa, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế

của Việt Nam.

Nhìn chung, trong suốt tám thập niên qua, dưới ánh sáng của Đề cương

về văn hóa Việt Nam, quá trình phát triển văn hóa và con người Việt Nam đã

có những bước tiến tích cực và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Vai trò

của văn hóa như một nguồn sức mạnh nội sinh cho sự phát triển toàn diện

của kinh tế - xã hội đất nước từng bước được hiện thực hóa. Văn hóa có đóng

góp như một lĩnh vực độc lập và như một thành tố nằm xuyên suốt trong các

lĩnh vực khác. Các nỗ lực của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc đổi mới

thể chế, chính sách, phương thức quản lý đã tạo ra những chuyển biến tích

cực trong mối quan hệ giữa các chủ thể, từ đó giúp phát huy năng lực và phẩm

chất của con người Việt Nam, nâng cao hiệu quả các hoạt động văn hóa và

phát huy được các giá trị văn hóa. Đây là phương hướng phát triển tương ứng

với khuôn khổ và mô hình phổ biến trên phạm vi quốc tế hiện nay, cũng phù

hợp với bối cảnh cụ thể của Việt Nam.

Tuy nhiên, xuyên suốt quá trình phát triển văn hóa, con người Việt Nam

theo tinh thần của Đề cương về văn hóa Việt Nam, một số hạn chế trong vận

dụng giá trị và nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa vẫn đang

tồn tại khiến cho các quan điểm xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo con

người có nhân cách, lối sống tốt đẹp chưa được triển khai mạnh mẽ, chưa thực

sự thấm sâu trong các tầng lớp nhân dân. Việc quán triệt và thực hiện đường

lối, quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa và con người có lúc, có nơi chưa

đạt yêu cầu đề ra và còn thiếu khoa học, đồng bộ. Cơ chế phối hợp giữa các

ban, ngành, cơ quan các cấp, giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân chưa

chặt chẽ. Sự tham gia của các chủ thể cấp cơ sở, đặc biệt là những người chịu

tác động trực tiếp của hệ thống thể chế, chính sách, còn mang tính hình thức.

Môi trường văn hóa có lúc, có nơi chưa lành mạnh, có mặt xuống cấp. Nhận

thức và giải quyết mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế còn chưa được quan

tâm đúng mức. Cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, chưa cải thiện hiệu quả

tình trạng bất bình đẳng giữa khu vực công lập và tư nhân trong việc tiếp cận

nguồn hỗ trợ từ Nhà nước.

16 80 NĂM ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM (1943-2023)...

3. “Đề cương về văn hóa Việt Nam” - động lực phát triển văn hóa,

xây dựng con người theo hướng bền vững

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng không chỉ khẳng định cần phải “đúc kết,

xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam” mà còn nhấn

mạnh khẩn trương “nghiên cứu xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn

hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình

Việt Nam thời kỳ mới”1

. Trước những thời cơ, thách thức và yêu cầu của sự

nghiệp phát triển đất nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn

hóa toàn quốc (2021) nhấn mạnh: “Phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát

triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là

“nền tảng tinh thần”, “động lực phát triển”, và “soi đường cho quốc dân đi”.

Trước những vấn đề đặt ra từ thực tế, nhằm hiện thực hóa đường lối của

Đảng, Kết luận của đồng chí Tổng Bí thư tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, và

tiếp tục đi sâu tạo đột phá về thể chế, chính sách trong quá trình triển khai

Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, việc kế thừa, phát huy các giá

trị, nguyên tắc của Đề cương về văn hóa trong phát triển văn hóa, con người

Việt Nam theo hướng bền vững là vô cùng quan trọng và thiết thực. Để vận

dụng khách quan, phát huy hiệu quả giá trị và nguyên tắc Đề cương trong

bối cảnh mới, chúng ta cần phải xác định xây dựng môi trường văn hóa là

nhiệm vụ trọng tâm, cốt lõi nhằm từng bước hình thành nên hệ sinh thái có

khả năng nuôi dưỡng, thúc đẩy sự sáng tạo, đồng thời tăng cường năng lực

kết nối, lan tỏa, định hình những giá trị tốt đẹp của văn hóa, con người Việt

Nam. Việc mở cửa hoàn toàn du lịch vào tháng 3/2022, gắn du lịch với văn

hóa, với tiến bộ khoa học công nghệ và phát triển vùng, địa phương cũng cho

thấy sự bứt phá của Việt Nam với vai trò là một trong những quốc gia tiên

phong triển khai các chương trình phục hồi sau đại dịch Covid-19 vì mục

tiêu phát triển bền vững. Những kết quả đạt được trong thời gian qua đã trở

thành minh chứng sống động cho việc khẳng định phát triển văn hóa khi có

sự phối hợp, liên kết đồng bộ và được triển khai một cách khoa học sẽ phát

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính

trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.143.

“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943... 17

huy tối đa vai trò của nhân dân với tư cách là chủ thể của sáng tạo và phát

triển văn hóa. Tiếp đó, hàng loạt sự kiện văn hóa, thể thao quy mô lớn cũng

được tổ chức, thu hút đông đảo sự tham gia của người dân trong nước và du

khách quốc tế, cũng đã góp phần tạo ra giá trị về kinh tế và nâng cao vị thế

thương hiệu quốc gia. Điểm lại một số ví dụ trên đây trong Hội thảo kỷ niệm

80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam như là điểm khởi đầu và động lực

mới cho sự phát triển khiến cho mỗi chúng ta càng thêm trân trọng vai trò

của Đề cương và những nỗ lực của những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa

trong việc vận dụng linh hoạt các giá trị, nguyên tắc của Đề cương trong việc

khơi dậy khát vọng cống hiến của toàn thể nhân dân cho phát triển văn hóa

trong sự phát triển chung của toàn dân tộc, nhất là trong các giai đoạn khó

khăn với những diễn biến khó lường vừa qua.

Vượt lên trên tất cả những khó khăn, thách thức, tư tưởng xây dựng nền

văn hóa mới vì dân tộc, đại chúng với một thái độ khách quan, đúng đắn, khoa

học của Đề cương đã luôn tạo sức hút, sức thuyết phục và khả năng quy tụ

mạnh mẽ tri thức, tâm huyết khát vọng cống hiến của toàn thể nhân dân Việt

Nam trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử dân tộc. Vì bản chất cốt lõi của

văn hóa chính là “một mặt trận”, là “ngọn đuốc soi đường cho quốc dân đi”, là

“sức mạnh nội sinh”, là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và cũng là

động lực để thúc đẩy sự phát triển của đất nước” như Đề cương về văn hóa

Việt Nam, cùng các văn kiện của Đảng đã khẳng định.

Trong giai đoạn hiện nay, vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng này của

văn hóa chỉ có thể phát huy hiệu quả khi đầu tư cho văn hóa phải thực sự

được chú trọng thông qua việc triển khai các chiến lược, chương trình với lộ

trình phù hợp. Đây chính là kết quả nhận thức có được từ việc kế thừa, phát

huy một cách khoa học nền tảng, giá trị mang ý nghĩa khởi nguồn của

Đề cương về văn hóa Việt Nam. Từ khởi nguồn này, trong các năm tiếp theo,

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ tiếp tục các nỗ lực nhằm khẳng định vị

thế của cơ quan chuyên trách về văn hóa và tạo ra những chuyển biến tích

cực trong toàn ngành. Đặc biệt, toàn ngành sẽ tập trung vào việc “biến tư duy

thành hành động” trong tiến trình hiện thực hóa các giá trị, nguyên tắc của

Đề cương trong xây dựng môi trường văn hóa nhằm đẩy mạnh và lan tỏa rộng

18 80 NĂM ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM (1943-2023)...

rãi ở khắp các cấp, các vùng, miền trên cả nước. Việc xây dựng môi trường văn

hóa được quan tâm một cách thực chất, khoa học và có chiều sâu hơn sẽ tạo

ra diện mạo mới cho đời sống văn hóa của toàn dân, kiến tạo các quan hệ hợp

tác lành mạnh, phát huy năng lực sáng tạo và nâng cao mức hưởng thụ văn

hóa của đông đảo quần chúng nhân dân.

Gắn bó chặt chẽ với mục tiêu xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh

chính là việc điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể có liên quan trong các

môi trường này. Phát triển văn hóa ở Việt Nam vẫn luôn được khẳng định là

sự nghiệp của toàn dân. Chính vì vậy, việc tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân

dân có thể hiện thực hóa vai trò của mình trong sự nghiệp này là một trong

những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành văn hóa. Từ việc tham gia

vào quá trình sáng tạo cho tới việc tiếp cận và hưởng thụ các sản phẩm văn

hóa, mỗi người dân đều có thể đóng góp vào sự phát triển chung của lĩnh vực

văn hóa, giúp nâng cao giá trị và phát huy hiệu quả các nguồn lực hiện có.

Những đóng góp và vai trò của người dân đối với việc phát triển văn hóa được

thể chế hóa như một nội dung của quyền văn hóa đã được khẳng định trong

Hiến pháp. Việc phát huy quyền văn hóa và thúc đẩy phát triển văn hóa như

một sự nghiệp của toàn dân sẽ giúp tăng cường quá trình đa dạng hóa các giá

trị và biểu đạt văn hóa, từ đó phát huy tốt hơn khả năng đóng góp về kinh tế

và xã hội của văn hóa. Đây là xu hướng chung trên thế giới và được thể chế hóa

thông qua các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia phê chuẩn.

Cuối cùng, một lần nữa khẳng định lại rằng, phát triển văn hóa theo quan

điểm mà Đảng ta đã đề ra luôn hướng tới sự toàn diện và hài hòa, trong đó

nhân tố con người nắm giữ vị trí then chốt. Văn hóa giữ vai trò điều tiết xã

hội bằng hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hóa của cộng đồng, văn hóa giữ vai

trò định hướng sự phát triển của xã hội bằng mục đích nhân văn của mình và

cột mốc văn hóa trong tâm trí con người luôn là cột mốc vững chắc nhất.

Với hàm nghĩa này, phát triển văn hóa chính là phát triển con người, một quá

trình phát triển lâu dài và hướng tới tương lai. Tuy nhiên, tầm quan trọng

của phát triển văn hóa lại đòi hỏi sự đầu tư tương xứng của Nhà nước và sự

đóng góp tích cực của các thành phần xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, đây là

một trong những nhiệm vụ quan trọng và đầy thách thức của Việt Nam.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!