Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Hỏi cung bị can của điều tra viên theo luật tố tụng hình sự Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
PHÙNG QUỐC KHỞI
HỎI CUNG BỊ CAN CỦA ĐIỀU TRA VIÊN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
HỎI CUNG BỊ CAN CỦA ĐIỀU TRA VIÊN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Nguyên Thanh
Học viên : Phùng Quốc Khởi
Lớp : Cao học Luật, An Giang khóa 2
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn thạc sĩ Luật
học “Hỏi cung bị can của điều tra viên theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” là
hoàn toàn trung thực và không trùng với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Các
thông tin, tài liệu trình bày trong Luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân dưới sự hướng dẫn khoa
học của TS. Lê Nguyên Thanh.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam kết.
Tác giả
Phùng Quốc Khởi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT TỪ VIẾT TẮT VIẾT ĐẦY ĐỦ
1 BLHS Bộ luật Hình sự
2 BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự
3 CQANĐT Cơ quan An ninh điều tra
4 CQCSĐT Cơ quan Cảnh sát điều tra
5 CQĐT Cơ quan Điều tra
6 ĐTV Điều tra viên
7 KSV Kiểm sát viên
8 NBC Người bào chữa
9 TTHS Tố tụng hình sự
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. HỎI CUNG BỊ CAN CỦA ĐIỀU TRA VIÊN CÓ GHI ÂM
HOẶC GHI HÌNH CÓ ÂM THANH......................................................................6
1.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam về hỏi cung bị can của Điều tra viên có ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh ......................................................................................................................6
1.1.1. Nhận thức khái quát về hỏi cung bị can của Điếu tra viên có ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh .................................................................................6
1.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hỏi cung bị can của Điều tra
viên có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.........................................................7
1.2. Thực tiễn hỏi cung bị can của Điều tra viên có ghi âm hoặc ghi hình có
âm thanh ..............................................................................................................12
1.2.1. Khái quát tình hình hỏi cung bị can của Điều tra viên có ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh và những hạn chế, vướng mắc.......................................12
1.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn hỏi cung bị
can của Điều tra viên có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh...........................19
1.3. Giải pháp bảo đảm hỏi cung bị can của Điều tra viên có ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh.................................................................................................21
1.3.1. Giải pháp hướng dẫn áp dụng pháp luật ...............................................21
1.3.2. Các giải pháp khác bảo đảm tổ chức hỏi cung bị can của Điều tra viên
có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh ..............................................................23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1........................................................................................25
CHƯƠNG 2. HỎI CUNG BỊ CAN CỦA ĐIỀU TRA VIÊN VỚI SỰ CÓ MẶT
CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA ....................................................................................26
2.1. Nhận thức khái quát và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về hỏi cung
bị can của điều tra viên với sự có mặt của người bào chữa ............................26
2.1.1. Nhận thức khái quát về hỏi cung bị can của điều tra viên với sự có mặt
của người bào chữa..........................................................................................26
2.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hỏi cung bị can của Điều tra
viên với sự có mặt của người bào chữa............................................................28
2.2. Thực tiễn hỏi cung bị can của Điều tra viên với sự có mặt người bào
chữa ......................................................................................................................33
2.2.1. Khái quát tình hình hỏi cung bị can của Điều tra viên với sự có mặt của
người bào chữa và những hạn chế, vướng mắc ...............................................33
2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc trong hỏi cung bị can của Điều
tra viên với sự có mặt người bào chữa.............................................................42
2.3. Các biện pháp bảo đảm hỏi cung bị can của điều tra viên với sự có mặt
của người bào chữa.............................................................................................45
2.3.1. Biện pháp hướng dẫn áp dụng pháp luật...............................................45
2.3.2. Biện pháp khác để bảo đảm hỏi cung bị can của Điều tra viên với sự có
mặt của người bào chữa...................................................................................46
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................48
KẾT LUẬN..............................................................................................................49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định cải cách tư pháp là mục tiêu, vừa là động
lực, vừa là nhiệm vụ để xây dựng Nhà nước pháp quyền, trong những nhiệm vụ đó
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm chiếm vị trí trọng yếu, từng bước được
khẳng định trong đời sống xã hội, đặc biệt là sự đóng góp của lượng lực Công an
Nhân dân nói chung và hoạt động của Điều tra viên đã góp phần giữ vững được sự
ổn định tình hình an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường an ninh
ổn định, thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, bảo vệ cuộc sống
bình yên của nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Hiến pháp năm 2013, đã ghi nhận rất nhiều quyền của con người, của công
dân, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, không bị tra tấn, bức
cung nhục hình hay bất cứ một hình thức đối xử nào khác xâm phạm đến thân thể,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Để phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô
tội, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, hạn chế
hiện tượng bức cung, nhục hình, pháp luật tố tụng hình sự quy định khi Điều tra
viên tiến hành hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại Cơ quan điều tra phải
được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, đồng thời cũng quy định hỏi cung bị can
của Điều tra viên với sự có mặt của người bào chữa tham gia nhằm giúp làm sáng tỏ
những tình tiết liên quan đến sự thật của vụ án, chứng cứ được thu thập từ hỏi cung
bị can của Điều tra viên có tính xác thực, khách quan.
Những quy định của pháp luật về hỏi cung bị can của Điều tra viên có ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh còn hạn chế, bất cặp; Điều tra viên còn trường hợp chưa
thực hiện đầy đủ về quyền của Người bào chữa được hỏi khi tham gia hỏi cung bị
can; Biên bản hỏi cung bị can không ghi nội dung câu hỏi của người bào chữa và
câu trả lời của bị can.
Chính vì vậy, Việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Hỏi cung bị can của Điều tra
viên theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Thông qua nghiên cứu đề tài làm rõ quy định của pháp luật về vấn đề này, từ đó có
2
nhận thức và áp dụng pháp luật thống nhất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện
các quy định của pháp luật về tố tụng hình sự cho phù hợp yêu cầu của công tác đấu
tranh, phòng chống tội phạm mà thực tiễn đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo sát thì chủ đề về “hỏi cung bị can của Điều tra viên theo TTHS
Việt Nam” đã được nhiều nhà nghiên cứu bàn luận. Trước hết là công trình nghiên
cứu dưới dạng tài liệu khoa học cơ bản như Giáo trình, Bình luận khoa học về
TTHS và khoa học điều tra hình sự. Những tài liệu này, cung cấp những kiến thức
lý luận cơ bản về TTHS và khoa học điều tra hình sự, trong đó có hỏi cung bị can:
- Nhóm tài liệu khoa học pháp lý cơ bản như sách, giáo trình:
Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự, Nhà
xuất bản Công an nhân dân.
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng hình
sự Việt Nam, Võ Thị Kim Oanh chủ biên, Nhà xuất bản Hồng Đức.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình khoa học điều tra hình sự,
Nhà xuất bản Công an nhân dân.
Nguyễn Ngọc Anh và Phan Trung Hoài (năm 2018), Bình luận khoa học Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia sự thật.
Các Giáo trình và sách Bình luận khoa học về TTHS trên đã giới thiệu, phân
tích cơ bản các quy định của BLTTHS, trong đó có nhiều nội dung liên quan đến
hỏi cung bị can
Ngoài ra, nội dung các tài liệu này còn tập trung phân tích những điểm mới
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Đây là nguồn tài liệu, tham khảo quý giá, có giá trị cho tác giả khi thực hiện Luận
văn để nghiên cứu thêm những vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn “Hỏi cung bị
can của Điều tra viên theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”
- Nhóm tài liệu khoa học và một số bài viết chuyên sâu gồm các tập chí, Luận
văn Thạc sỹ được công bố liên quan đến đề tài:
- Bài viết về ghi nhận ý kiến PGS.TS Nguyễn Thái Phúc ghi âm, ghi hình khi
hỏi cung sẽ hạn chế bức cung, nhục hình đăng trên chuyên mục pháp luật Báo tiếng
nói Việt Nam (https://vov.vn/phap-luat/tu-van-luat/ghi-am-ghi-hinh-khi-hoi-cungse-han-che-buc-cung-nhuc-hinh-459624.vov ngày 16/12/2015).
- Các luận văn Thạc sỹ luật học
3
- Võ Minh Đạt (2018) “Hỏi cung bị can theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam”,
Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thành Lợi (2018) “Hỏi cung bị can theo Luật tố tụng hình sự Việt
Nam”, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh;
- Phạm Văn Phúc (2019) “Hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi theo Luật tố
tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Các công trình nghiên cứu về những vấn đề lý luận chung có liên quan đến
hỏi cung bị can và phân tích đánh giá việc áp dụng các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự hiện hành. Tuy nhiên, các công trình này ở những mức độ khác nhau
đề cập đến quy định của pháp luật hỏi cung bị can chủ thể có thẩm quyền hỏi cung,
trình tự thủ tục hỏi cung.
Để phân tích các bất cập, hạn chế liên quan đến nhận thức, pháp lý và thực
tiễn hỏi cung bị can, phổ biến nhất là hỏi cung bị can do Điều tra viên tiến hành, từ
đó đưa ra đề xuất về giải pháp bảo đảm hỏi cung bị can trong tố tụng hình sự, tác
giả chọn đề tài “Hỏi cung bị can của Điều tra viên theo Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam” này làm Luận văn thạc sỹ luật học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hỏi
cung bị can và thực tiễn áp dụng có liên quan đến trường hợp hỏi cung bị can của
Điều tra viên với sự có mặt của người bào chữa, từ đó kiến nghị các biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả hỏi cung bị can của Điều tra viên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề nhận thức khái quát về hỏi cung bị can của Điều tra
viên liên quan đến quy định ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và hỏi cung bị can
với sự có người bào chữa.
- Phân tích đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hỏi cung bị
can của Điều tra viên liên quan đến quy định ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và
hỏi cung bị can với sự có mặt của người bào chữa
- Đánh giá thực trạng hỏi cung bị can của Điều tra viên trong các vụ án hình sự
chủ yếu trên địa bàn tỉnh An Giang và tỉnh Đồng Tháp trong phạm vi nghiên cứu trên.
- Kiến nghị một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hỏi cung bị can bảo
đảm thủ tục ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và hỏi cung bị can với sự có mặt của
người bào chữa.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đó là những vấn đề mang tính lý luận, pháp lý và thực tiễn về hỏi cung bị can
của Điều tra viên có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và hỏi cung bị can với sự có
mặt của người bào chữa theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài chỉ nghiên cứu về hỏi cung bị can của Điều tra viên được
ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; hỏi cung bị can của Điều tra viên với sự có mặt
người bào chữa theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, các văn bản dưới luật.
Về địa bàn nghiên cứu, khảo sát: Địa bàn tỉnh An Giang và tỉnh Đồng Tháp.
Về thời gian nghiên cứu, khảo sát: Từ năm 2018 đến năm 2021.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết, gồm phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh và phương pháp tổng hợp; Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
phương pháp nghiên cứu vụ án.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Góp phần nâng cao nhận thức lý luận về hỏi cung bị can của người tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng theo Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
Phát hiện những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế về hỏi
cung bị can Điều tra viên tại tỉnh An Giang và tỉnh Đồng Tháp.
Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hỏi cung bị can của Điều tra viên.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa lý luận:
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần bổ sung lý luận về hỏi cung bị can của
Điều tra viên trong vụ án hình sự.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Đề tài được sử dụng làm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu tham khảo,
giảng dạy và học tập ở các trường đại học luật, tài liệu tham khảo tại thư viện
Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh.
5
Đối với các giải pháp đề xuất trong đề tài này, cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự có thể tham
khảo và vận dụng trong thực tiễn hoạt động hỏi cung bị can.
Cơ cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn được chia thành 2 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Hỏi cung bị can của Điều tra viên có ghi âm hoặc ghi hình có
âm thanh
Chương 2. Hỏi cung bị can của Điều tra viên với sự có mặt của người bào chữa
6
CHƯƠNG 1
HỎI CUNG BỊ CAN CỦA ĐIỀU TRA VIÊN
CÓ GHI ÂM HOẶC GHI HÌNH CÓ ÂM THANH
1.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam về hỏi cung bị can của Điều tra viên có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh
1.1.1. Nhận thức khái quát về hỏi cung bị can của Điếu tra viên có ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, bị can là người hoặc
pháp nhân bị khởi tố về hình sự1
. Hỏi cung bị can là biện pháp phát hiện, thu thập
chứng cứ trong tố tụng hình sự, do ĐTV tiến hành bằng cách đặt câu hỏi để bị can
trả lời và ghi nhận lại thông qua việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong biên
bản hỏi cung bị can2
.
Hoạt động hỏi cung bị can của ĐTV có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh là
việc CQĐT và ĐTV sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật để ghi lại âm thanh hoặc
hình ảnh có âm thanh trong quá trình hỏi cung bị can;3 bằng phương tiện, thiết bị kỹ
thuật sử dụng để ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, phương tiện, thiết bị ghi âm
thanh hoặc ghi hình có âm thanh gồm: Thiết bị thu hình ảnh, âm thanh, đầu ghi
hình, máy chủ, các phương tiện thiết bị kỹ thuật khác sử dụng để ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh theo quy định4
.
Hỏi cung bị can có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong hoạt động hỏi
cung bị can của ĐTV được tiến hành nơi có điều kiện ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh là bắt buộc tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở CQĐT, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc quy định này, có ý nghĩa rất
quan trọng không chỉ bảo đảm quyền con người, quyền của bị can mà còn tăng
cường giám sát hoạt động TTHS, hoạt động hỏi cung bị can của ĐTV được thận
trọng hơn, khách quan, không lạm quyền của những người tiến hành tố tụng.
Hoạt động hỏi cung bị can của ĐTV có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh là
hoạt động thu thập chứng cứ của vụ án, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng chứng
minh hành vi phạm tội, xác định sự thật khách quan của vụ án. Hơn nữa, việc ghi
âm hoặc ghi hình có âm thanh là căn cứ để cho những người tiến hành tố tụng
1 Quy định tại điểm a khoản 2 Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
2 Nguyễn Ngọc Anh, Phan Trung Hoài (2018), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, nhà xuất
bản Chính trị quốc gia sự thật
3 Quy định tại khoản 1 Điều 2 (Thông tư liên tịch số 03/2018)
4 Quy định tại khoản 2 Điều 2 (Thông tư liên tịch số 03/2018)
7
không bị ghi ngờ trong quá trình hỏi cung, có bức cung, dùng nhục hình…Hỏi cung
bị can ở giai đoạn điều tra, thường thu thập được những thông tin ban đầu rất quan
trọng làm cơ sở mở rộng điều tra vụ án.
Với những cách tiếp cận vấn đề như trên, có thể hiểu: Hỏi cung bị can có ghi
âm hoặc ghi hình có âm thanh là thủ tục hỏi cung được quy định trong pháp luật
TTHS, theo đó việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh được thực hiện nhằm bảo
đảm tính khách quan, trung thực của hoạt động hỏi cung bị can, đồng thời phòng
ngừa hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình hỏi cung bị can.
1.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hỏi cung bị can của Điều tra
viên có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh
Khoản 1 Điều 183 BLTTHS năm 2015 quy định “…việc hỏi cung bị can do
Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can…”. Hỏi cung bị
can là một trong những nhiệm vụ của ĐTV trong giai đoạn điều tra, ngoài việc tuân
thủ các quy định của pháp luật TTHS trong quá trình điều tra vụ án, ĐTV còn có
kiến thức xã hội, am hiểu tâm lý tội phạm, có trình độ nghiệp vụ.
Để hoạt động hỏi cung bị can được khách quan, bảo đảm quyền lợi hợp pháp
của bị can, khoản 6 Điều 183 BLTTHS năm 2015 quy định: “Việc hỏi cung bị can
tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc
hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu
cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.
BLTTHS năm 2015 quy định các biện pháp bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của bị can, nhưng chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh. Do đó, Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTCTANDTC-BQP ngày 01/02/2018 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện
ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; Bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình
có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử (Ghi tắt Thông tư liên tịch số
03/2018) đã được ban hành và cụ thể hóa việc hỏi cung bị can có ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh.
Việc bảo đảm tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố
tụng được quy định trong BLTTHS năm 2015, khi tiến hành hỏi cung bị can có ghi
âm hoặc ghi hình có âm thanh, ĐTV phải bảo đảm quyền của bị can theo quy định
của pháp luật TTHS, như: tại điểm e khoản 2 Điều 60 BLTTHS năm 2015 quy định
8
bị can trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Tại điểm g khoản 2 Điều 60
BLTTHS năm 2015 quy định đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng. Tại điểm i khoản 2 Điều 60 BLTTHS năm 2015 quy định đọc, ghi chép bản
sao tài liệu hoặc tài liệu bị số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội. Tại điểm k
khoản 2 Điều 60 BLTTHS năm 2015 quy định khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Quá trình tiến hành hỏi cung bị can phải đảm bảo nguyên tắc tuyệt đối khách
quan, thận trọng, nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc đảm bảo tính toàn diện, đầy đủ,
bí mật thông tin. Pháp luật cũng nghiêm cấm người có thẩm quyền sử dụng các hình
thức mớm cung, dụ cung, bức cung hoặc nhục hình, các hành vi này có thể dẫn tới
hậu quả xấu, bất lợi cho bị can.
Để cụ thể hóa những quy định của pháp luật TTHS, Thông tư liên tịch số
03/2018 đã quy định một cách chi tiết về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh việc hỏi cung bị can của ĐTV như:
Việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh phải bảo đảm tính khách quan, minh
bạch, nguyên vẹn của dữ liệu ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Dữ liệu ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh là một bộ phận của hồ sơ vụ án hình sự được sử dụng, bảo quản,
lưu trữ theo quy định của pháp luật về sử dụng, bảo quản và lưu trữ hồ sơ vụ án hình
sự5
. Việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ, kết quả ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh trong quá trình điều tra phải tuân thủ các quy định của
BLTTHS và theo đúng trình tự, thủ tục hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 03/2018.
Khi ĐTV tiến hành hoạt động hỏi cung bị can có ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh tại cơ sở giam giữ, trụ sở CQĐT phải là phòng chuyên dụng bảo đảm đủ điều
kiện về diện tích, ánh sáng, an toàn và được trang bị phương tiện, thiết bị kỹ thuật
sử dụng để ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh đạt chất lượng về âm thanh và hình
ảnh6
. Đồng thời, phải có cán bộ chuyên môn là cán bộ thuộc CQĐT có trình độ
chuyên môn kỹ thuật và sử dụng thành thạo các phương tiện, thiết bị kỹ thuật ghi
âm hoặc ghi hình có âm thanh, có trách nhiệm trong việc quản lý hệ thống phương
tiện, thiết bị kỹ thuật sử dụng để ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và bảo quản, lưu
trữ kết quả dữ liệu ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh7
.
5 Quy định tại khoản 1 Điều 3 (Thông tư liên tịch số 03/2018).
6 Quy định tại khoản 4 Điều 2 (Thông tư liên tịch số 03/2018)
7 Quy định tại khoản 5 Điều 2 (Thông tư liên tịch số 03/2018)
9
Trường hợp hỏi cung bị can tại địa điểm khác thì ĐTV phải đăng ký với Bộ
phận phụ trách kỹ thuật để được hỗ trợ thực hiện các hoạt động ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh và bố trí cán bộ chuyên môn đi cùng; liên hệ với cơ quan, tổ chức
hữu quan để được bố trí phòng làm việc, đảm bảo điều kiện về âm thanh, ánh sáng,
không gian theo quy định. ĐTV phải phối hợp với cán bộ kỹ thuật khảo sát trước để
bố trí thiết bị, vị trí ngồi của người hỏi cung, bị can và những người khác. Trích
xuất hoặc triệu tập bị can, ĐTV làm thủ tục trích xuất bị can bị tạm giam hoặc triệu
tập bị can tại ngoại; không được đưa bị can tại ngoại vào hỏi cung ở cơ sở giam giữ,
trừ trường hợp đối chất với bị can đang bị tạm giam; thông báo cho bị can biết về
việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, việc thông báo phải ghi vào biên bản sau đó
tiến hành làm việc. Trường hợp không bố trí được thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có
âm thanh thì không được tiến hành hỏi cung.
Quyết định lựa chọn hình thức ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, thành phần
tham gia thực hiện việc ghi âm, ghi hình, đối tượng ghi âm ghi hình, việc bố trí chỗ
ngồi của ĐTV, bị can, KSV (nếu có), NBC (nếu có), cán bộ kỹ thuật theo quy định.
Việc chuẩn bị trang thiết bị phương tiện có đủ điều kiện ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh hay không?, kiểm tra hoạt động của Camera, micro và các điều kiện kỹ thuật
khác để đảm bảo việc thu nhận tín hiệu đạt hiệu quả tốt nhất.
Việc xây dựng kế hoạch hỏi cung bị can, trước khi tiến hành các hoạt động
hỏi cung bị can thì ĐTV được phân công điều tra vụ án phải xây dựng kế hoạch hỏi
cung có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, trình lãnh đạo có thẩm quyền phê duyệt,
nội dung kế hoạch phải đề xuất nêu rõ: địa điểm hỏi cung; thời gian hỏi cung; lựa
chọn hình thức ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh (cố định hoặc cơ động).
Thực hiện thông báo khi tiến hành hỏi cung bị can, ĐTV thông báo kế hoạch
hỏi cung cho KSV về việc hỏi cung bị can có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh
theo Điều 183 BLTTHS năm 2015. Nếu vụ án có NBC thì thông báo cho NBC biết
về việc tiến hành hỏi cung bị can, thông báo phải đầy đủ thông tin về thời gian bắt
đầu tiến hành hỏi cung bị can, địa điểm tiến hành hỏi cung bị can. Trường hợp NBC
tham gia buổi hỏi cung bị can thì hỗ trợ tạo điều kiện cho NBC thực hiện quyền bào
chữa theo quy định của pháp luật.
Về đăng ký địa điểm hỏi cung bị can, ĐTV đăng ký với cơ sở giam giữ hoặc
cơ quan có thẩm quyền điều tra để được bố trí phòng chuyên dụng, ĐTV phải đăng
ký với cán bộ chuyên môn kỹ thuật để được hướng dẫn về quy trình, thao tác kỹ
thuật thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và trực tiếp thực hiện các