Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Luận Văn
Đề Tài: Hội chứng rối loạn sinh sản và hô
hấp
1
Mục lục
I. KHÁI NIỆM VỀ BỆNH....................................................................................3
II. LỊCH SỬ VÀ ĐỊA DƯ BỆNH.........................................................................4
III. CĂN BỆNH...................................................................................................11
3.1. Hình thái.......................................................................................................12
3.2. Đặc tính của virus nhược độc dùng để chế vaccine.....................................13
3.4. Khả năng ngưng kết máu..............................................................................14
3.5. Cấu trúc của virus.........................................................................................14
3.6. Sự phát triển của virus trong môi trường tế bào...........................................19
3.7. Phản ứng chéo với các virus khác................................................................21
3.8. Những virus liên quan..................................................................................21
IV. TRUYỀN NHIỄM HỌC...............................................................................23
4.1. Loài mắc bệnh..............................................................................................23
4.2. Chất chứa mầm bệnh và quá trình truyền lây...............................................24
4.3. Điều kiện lây lan bệnh..................................................................................27
4.4.Cơ chế sinh bệnh...........................................................................................28
4.4.2. Bệnh liên cầu lợn.......................................................................................31
VI.BỆNH TÍCH...................................................................................................50
7.1. Chẩn đoán lâm sàng......................................................................................54
VIII. Phòng và trị bệnh........................................................................................63
2
HỘI CHỨNG RỐI LOẠN SINH SẢN VÀ HÔ HẤP
(Porcine Reproductive and Respiratory Syndome)
Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn (còn gọi là bệnh tai xanh) là
bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, lây lan nhanh và làm chết nhiều lợn nhiễm bệnh.
Hiện nay, hội chứng này đã trở thành dịch địa phương ở nhiều nước trên thế
giới, kể cả các nước có ngành chăn nuôi lợn phát triển và có thể gây ra những
tổn thất rất lớn cho người chăn nuôi. Theo kết quả đánh giá tác động kinh tế của
PRRS với ngành chăn nuôi lợn của Mỹ, hàng năm nước này phải gánh chịu
những tổn thất và chi phí cho công tác phòng chống bệnh lên đến 560 triệu
USD. Mặc dù, Hội chứng này lần đầu tiên phát hiện ở Mỹ vào năm 1987, sau đó
là ở Châu Âu (tại Đức vào cuối năm 1990 và tại Hà Lan vào năm 1991) và châu
Á dầu những năm 90, đến nay các biện pháp khống chế bệnh vẫn chưa khẳng
định là thành công. Do đó, chắc chắn những tổn thất liên quan đến PRRS vẫn
còn tiếp tục xảy ra ở nhiều nước trên thế giới. Vì vậy, việc nắm rõ về bệnh là
một trong những khâu quan trọng trong công tác phòng chống dịch nhằm giảm
thiểu những tổn thất không đáng có.
I. KHÁI NIỆM VỀ BỆNH
Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn (PRRS: Porcine Reproductive
and Respiratory Syndome) còn gọi là “ bệnh lợn tai xanh”, là một bệnh truyền
nhiễm nguy hiểm đối với loài lợn (kể cả lợn rừng ), gây ra bởi virus Lelystad.
Bệnh lây lan nhanh với các biểu hiện đặc trưng về rối loạn sinh sản ở lợn nái :
sảy thai, thai chết lưu, lợn sơ sinh chết yểu. Ở lợn con theo mẹ, lợn hậu bị thể
hiện viêm đường hô hấp rất nặng: sốt, ho, khó thở, chết với tỷ lệ cao. Theo FAO
xác định bệnh không lây truyền sang gia súc khác và con người.
Một số tên gọi khác của bệnh:
*Mỹ:
- Mystery disease syndrom (MDS).
3
- Swine Reproductive and Respiratory Syndrom (SRRS).
- Swine Infertility and Respiratory Syndrom (SIRS).
- Mistrey swine disease.
*Cộng đồng các nước châu Âu và tổ chức dịch tễ thế giới:
- Porcine Reproductive and Respiratory Syndrom (PRRS)
HA. Một số tên gọi khác của hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản
II. LỊCH SỬ VÀ ĐỊA DƯ BỆNH
Bệnh được ghi nhận lần đầu tiên tại Mỹ vào khoảng năm 1987, vào thời
điểm đó, do chưa xác định được căn nguyên bệnh nên được gọi là “bệnh bí hiểm
ở lợn” (MDS), một số người căn cứ theo triệu chứng gọi là “bệnh tai xanh ở
lợn”.Sau đó bệnh lây lan rộng trên toàn thế giới và được gọi bằng nhiều tên: Hội
chứng hô hấp và sinh sản của lợn (SIRS), bệnh bí hiểm ở lợn (MDS) như ở châu
Mỹ hay Hội chứng hô hấp và sảy thai ở lợn (PEARS), hội chứng hô hấp và sinh
sản lợn (PRRS), bệnh tai xanh như ở châu Âu. Năm1992, Hội nghị quốc tế về
bệnh này được tổ chức tại St.Paul, Minnesota đã nhất trí dùng tên PRRS và được
tổ chức Thú y Thế giới công nhận .
*Tình hình dịch bệnh trên thế giới và ở các nước trong khu vực:
4
Tính từ năm 2005 trở lại đây, 25 nước vùng lãnh thổ thuộc tất cả các châu
lục ( trừ châu ÚC và New Zealand) trên Thế giới đã báo cáo cho tổ chức Thú y
thế giới (OEI) khẳng định phát hiện có PRRS lưu hành. Con số thực tế sẽ còn
khác rất nhiều. Trong số các nước nêu trên có cả các nước có nghành chăn nuôi
phát triển mạnh như Mỹ, Hà Lan, Đan Mạch, Anh, Pháp, Đức…tổn thất do
PRRS gây ra tại các nước này lên đến hàng trăm triệu đô la.
HA. Bản đồ lịch sử xuất hiện bệnh PRRS trên thế giới
Tại Trung Quốc, dịch bệnh PRRS đã xuất hiện trong những năm gần đây
và hiện đang còn tồn tại. Chủng virus đang lưu hành tại nước này là chủng thuộc
dòng Bắc Mỹ, chúng được chia thành hai dạng, gồm chủng cổ điển (gây chết ít
lợn mắc bệnh) và chủng độc lực cao (gây chết nhiều lợn nhiễm bệnh).Trong
vòng hơn 3 tháng của năm 2006, chủng virus PRRS độc lực cao đã gây ra đại
dịch lây lan ở hơn 10 tỉnh phía Nam, làm hơn 2 triệu con ốm, trong đó có hơn
400.000 lợn mắc bệnh đã chết. Tính từ đầu năm đến tháng 7/2007, dịch bệnh đã
xảy ra ở trên 25 tỉnh, với trên 180.000 lợn mắc bệnh và 45.000 con chết. Điều
đáng chú ý là virus gây ra đại dịch PRRS vào năm 2006 ở Trung Quốc đã cho
thấy những thay đổi, tăng tính cường độc mạnh hơn rất nhiều so với các chủng
virus PRRS cổ điển được phân lập ở nhiêu địa phương khác nhau tại nước này
từ năm 1996-2006.
5
Bên cạnh đó một báo cáo khác cũng cho thấy tại nước này tỷ lệ lợn có
huyết thanh dương tính với PRRS tại tỉnh Quảng Đông là trên 57%, đặc biệt các
trại chăn nuôi tập trung với số lượng lớn có tỷ lệ lưu hành của virus cao hơn các
trại chăn nuôi nhỏ lẻ. Điều đáng chú ý là tại Hồng Kông, người ta đã xác định
được rằng lợn có thể nhiễm đồng thời cùng một lúc cả 2 chủng virus dòng Bắc
Mỹ và dòng Châu Âu.
Tại Thái Lan, một nghiên cứu quy mô rộng lớn từ năm 2000-2003 cho
thấy các virus PRRS được phân lập từ nhiều điạ phương thuộc nước này gồm cả
chủng dòng Châu Âu và dòng Bắc Mỹ. Trong đó virus thuộc chủng dòng Bắc
Mỹ chiếm 33,58%, dòng Châu Âu chiếm 66,42%. Các nghiên cứu trước đó đã
khẳng định PRRS lần đầu tiên xuất hiện ở nước này vào năm 1989 và tỷ lệ lưu
hành huyết thanh của bệnh này cũng thay đổi khác nhau, từ 8,7% vào năm 1991
và trên 76% vào năm 2002. Nguồn gốc PRRS tại Thái Lan là do việc sử dụng
tinh lợn nhập nội đã bị nhiễm virus PRRS hoặc là do các đàn nhập nội mang
trùng.
* Diễn biến dịch PRRS tại Việt Nam
Lần đầu tiên trong lịch sử vào năm 1997, PRRS được phát hiện trên đàn
lợn nhập từ Mỹ vào các tỉnh miền Nam. Kết quả kiểm tra thấy 10/51 lợn giống
nhập khẩu có huyết thanh dương tính với PRRS. Toàn bộ số lợn này đã được xử
lý vào thời gian đó. Tuy nhiên, trong những năm tiếp theo, các nghiên cứu về
bệnh trên những trại lợn giống tại các tỉnh phía Nam cho thấy tỷ lệ lợn có huyết
thanh dương tính với bệnh rất khác nhau, từ 1,3% cho tới 68,29% (Báo cáo của
Cục Thú y, 2007).
Điều tra huyết thanh học của các tác giả Akemi Kamakawa và Hồ Thị
Viết Thu từ năm 1999-2003 cho thấy tỷ lệ lợn có kháng thể kháng virus PRRS
tại Cần Thơ là 7,7% (37/478 mẫu dương tính với virus PRRS).
Như vậy có thể thấy virus PRRS đã xuất hiện và lưu hành tại nước ta
trong một thời gian dài. Tuy nhiên, kể từ khi xác định được lợn có kháng thể
6
kháng virus PRRS ở đàn lợn giống nhập từ Mỹ, tại Việt Nam chưa từng có vụ
dịch PRRS nào xảy ra.
+ Đợt dịch đầu tiên:
Dấu ấn quan trọng của dịch PRRS tại Việt Nam được bắt đầu từ ngày
12/3/2007, hàng loạt đàn lợn tại Hải Dương có những biểu hiện ốm khác
thường. Ngày 23/3/2007, lần đầu tiên cơ quan thú y tại tỉnh này đã báo cáo cho
Cục Thú y, ngay sau đó ngày 26/3/2007, Trung tâm Chẩn đoán Thú y Trung
ương- Cục Thú y đã tiến hành lấy mẫu xét nghiệm và cho kết quả dương tính
với virus PRRS (2007). Do lần đầu tiên dịch PRRS xuất hiện tại Việt Nam và do
không quản lý được việc buôn bán, vận chuyển lợn ốm, dịch PRRS đã lây lan
nhanh và phát triển mạnh tại 6 tỉnh thành khác nhau thuộc Đồng bằng Sông
Hồng, gồm: Hưng Yên, Quảng Ninh, Thái Bình, Bắc Giang và Hải Phòng làm
hàng ngàn con lợn mắc bệnh ( Bảng 1).
Bảng 1: Tổng hợp tình hình dịch bệnh tai xanh tại các tỉnh phía Bắc (từ 12/3- 5/5/2007)
T
T
Tỉnh Số
huyện
Số
xã
Số lợn mắc bệnh Số lợn chết và xử lý
Tổng
số
Lợn
nái
Lợn
con
Lợn
thịt
Tổng
số
Lợn
nái
Lợn
con
Lợn
thịt
1 Hải Dương 5 33 11269 1356 5775 4138 3611 715 1788 1108
2 Hưng Yên 8 56 5427 1104 2181 4142 816 201 510 150
3 Bắc Ninh 3 22 4907 1555 2992 164 82 82
4 Bắc Giang 5 21 5045 1658 2246 1141 291 93 198
5 Thái Bình 2 4 1738 177 1338 223 1263 561 679 223
6 Hải Phòng 1 4 461 129 270 62 50 23 19 8
7 Quảng
Ninh
1 6 2903 376 1827 700 1101 137 873 91
Tổng số 25 146 31750 6355 16629 8406 7296 1812 4149 1580
Qua bảng 1 cho thấy, dịch PRRS tại Việt Nam đã xảy ra với lợn ở các lứa
tuổi khác nhau (lợn nái, lợn con, lợn thịt). Số liệu trên có thể có nhiều thay đổi
so với thực tế vì việc khai báo của người chăn nuôi còn chưa thực sự trung thực
7