Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

hoạt động nhượng quyền thương mại phở 24 thực trạng và giải pháp hoàn thiện
PREMIUM
Số trang
97
Kích thước
951.7 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1037

hoạt động nhượng quyền thương mại phở 24 thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

CHƯƠNG 1

KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN XÃ HỘI BẮC NINH

1. Điều kiện tự nhiên.

1.1. Vị trí địa lý

Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ, nằm gọn trong châu

thổ sông Hồng, liền kề với thủ đô Hà Nội. Bắc Ninh nằm trong vùng kinh tế

trọng điểm: tam giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, khu

vực có mức tăng trưởng kinh tế cao, giao lưu kinh tế mạnh.

- Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang

- Phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên và một phần Hà Nội

- Phía Đông giáp tỉnh Hải Dương

- Phía Tây giáp thủ đô Hà Nội

Với vị trí như thế, xét tầm không gian lãnh thổ vĩ mô, Bắc Ninh có

nhiều thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh:

- Nằm trên tuyến đường giao thông quan trọng chạy qua như quốc lộ

1A, quốc lộ 18, đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn và các tuyến đường thuỷ như

sông Đuống, sông Cầu, sông Thái Bình rất thuận lợi cho vận chuyển hàng

hoá và du khách giao lưu với các tỉnh trong cả nước.

- Gần thủ đô Hà Nội được xem như là một thị trường rộng lớn hàng

thứ hai trong cả nước, có sức cuốn hút toàn diện về các mặt chính trị, kinh

tế, xã hội, giá trị lịch sử văn hoá... đồng thời là nơi cung cấp thông tin,

chuyển giao công nghệ và tiếp thị thuận lợi đối với mọi miền đất nước. Hà

Nội sẽ là thị trường tiêu thụ trực tiếp các mặt hàng của Bắc Ninh về nông -

lâm - thuỷ sản, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ...

Bắc Ninh cũng là địa bàn mở rộng của Hà Nội qua xây dựng các thành phố

vệ tinh, là mạng lưới gia công cho các xí nghiệp của thủ đô trong quá trình

công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

1

- Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc gồm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng

Ninh sẽ có tác động trực tiếp đến hình thành cơ cấu và tốc độ tăng trưởng

kinh tế của Bắc Ninh về mọi mặt, trong đó đặc biệt là công nghiệp chế biến

nông sản và dịch vụ du lịch.

- Là cửa ngõ phía Đông Bắc của thủ đô Hà Nội, Bắc Ninh là cầu nối

giữa Hà Nội và các tỉnh trung du miền núi phía Bắc, trên đường bộ giao lưu

chính với Trung Quốc và có vị trí quan trọng đối với an ninh quốc phòng.

Trong cấu trúc địa lý không gian thuận lợi như vậy sẽ là yếu tố phát

triển quan trọng và là một trong những tiềm lực to lớn cần được phát huy

một cách triệt để nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy quá

trình đô thị hoá của tỉnh Bắc Ninh. Xét trên khía cạnh cấu trúc hệ thống đô

thị và các điểm dân cư của tỉnh thì các đô thị Bắc Ninh sẽ dễ trở thành một

hệ thống hoà nhập trong vùng ảnh hưởng của thủ đô Hà Nội và có vị trí

tương tác nhất định với hệ thống đô thị chung toàn vùng kinh tế trọng điểm

phía Bắc

1.2. Địa hình, đất đai và khí hậu

Bắc Ninh thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh.

Nhiệt độ trung bình năm là 23,3°C, nhiệt độ trung bình tháng cao nhất là

28,9°C (tháng 7), nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là 15,8°C (tháng 1).

Sự chênh lệch nhiệt độ giữa tháng cao nhất và tháng thấp nhất là 13,1°C.

Lượng mưa trung bình hàng năm dao động trong khoảng 1400 -

1600mm nhưng phân bố không đều trong năm. Mưa tập trung chủ yếu từ

tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Mùa khô từ

tháng 11 đến tháng 4 năm sau chỉ chiếm 20% tổng lượng mưa trong năm.

Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1530 - 1776 giờ, trong đó

tháng có nhiều giờ nắng trong năm là tháng 7, tháng có ít giờ nắng trong

năm là tháng 1.

Hàng năm có 2 mùa gió chính: gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông

Nam. Gió mùa Đông Bắc thịnh hành từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm

2

sau, gió mùa Đông Nam thịnh hành từ tháng 4 đến tháng 9 mang theo hơi

ẩm gây mưa rào.

Nhìn chung Bắc Ninh có điều kiện khí hậu đồng đều trong toàn tỉnh

và không khác biệt nhiều so với các tỉnh đồng bằng lân cận nên việc xác

định các tiêu trí phát triển đô thị có liên quan đến khí hậu như hướng gió,

thoát nước mưa, chống nóng, khắc phục độ ẩm... dễ thống nhất cho tất cả

các loại đô thị trong vùng; việc xác định tiêu chuẩn qui phạm xây dựng đô

thị có thể dựa vào qui định chung cho các đô thị vùng đồng bằng Bắc bộ.

Địa hình của tỉnh tương đối bằng phẳng, có hướng dốc chủ yếu từ Bắc

xuống Nam và từ Tây sang Đông, được thể hiện qua các dòng chảy mặt đổ

về sông Đuống và sông Thái Bình. Mức độ chênh lệch địa hình không lớn,

vùng đồng bằng thường có độ cao phổ biến từ 3 - 7 m, địa hình trung du đồi

núi có độ cao phổ biến 300 - 400m. Diện tích đồi núi chiếm tỷ lệ rất nhỏ

(0,53%) so với tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh, phân bố chủ yếu ở 2 huyện

Quế Võ và Tiên Du. Ngoài ra còn một số khu vực thấp trũng ven đê thuộc

các huyện Gia Bình, Lung Tài, Quế Võ, Yên Phong.

Đặc điểm địa chất mang những nét đặc trưng của cấu trúc địa chất

thuộc vùng trũng sông Hồng, bề dày trầm tích đệ tứ chịu ảnh hưởng rõ rệt

của cấu trúc mỏng. Tuy nhiên nằm trong miền kiến tạo Đông Bắc, Bắc bộ

nên cấu trúc địa chất lãnh thổ Bắc Ninh có những nét còn mang tính chất

của vòng cung Đông Triều vùng Đông Bắc. Toàn tỉnh có mặt các loại đất đá

có tuổi từ Cambri đến đệ tứ song nhìn chung có thành tạo Kainozoi phủ trên

các thành tạo cổ. Đây là thành tạo chiếm ưu thế về địa tầng lãnh thổ. Các

thành tạo Triat phân bố trên ở hầu hết các dãy núi, thành phần thạch học chủ

yếu là cát kết, sạn kết. Bề dày các thành tạo đệ tứ biến đổi theo quy luật trầm

tích từ Bắc xuống Nam. ở các vùng núi do bị bóc mòn nên bề dày của

chúng còn rất mỏng, càng xuống phía Nam bề dày có thể đạt tới 100 m,

trong khi đó vùng phía Bắc (Đáp Cầu) bề dày chỉ đạt 30 - 50 m.

3

Với đặc điểm này địa chất của tỉnh Bắc Ninh có tính ổn định hơn so

với Hà Nội và các đô thị vùng đồng bằng Bắc bộ khác trong việc xây dựng

công trình. Và về mặt địa hình có thể hình thành hai dạng đô thị vùng đồng

bằng và trung du. Bên cạnh đó có một số đồi núi nhỏ dễ tạo cảnh quan đột

biến; cũng như một số vùng trũng nếu biết khai thác có thể tạo ra cảnh quan

sinh thái đầm nước vào mùa mưa để phục vụ cho các hoạt động văn hoá và

du lịch.

1.3. Đặc điểm thủy văn:

Bắc Ninh có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, mật độ lưới sông khá

cao, trung bình 1,0 - 1,2 km/km², có 3 hệ thống sông lớn chảy qua gồm sông

Đuống, sông Cầu và sông Thái Bình.

_ Sông Đuống: Có chiều dài 42 km nằm trên đất Bắc Ninh, tổng

lượng nước bình quân 31,6 tỷ m³. Mực nước cao nhất tại bến Hồ tháng

8/1945 là 9,64m, cao hơn so với mặt ruộng là 3 - 4 m. Sông Đuống có hàm

lượng phù sa cao, vào mùa mưa trung bình cứ 1 m³ nước có 2,8 kg phù sa.

_ Sông Cầu: Tổng chiều dài sông Cầu là 290 km với đoạn chảy qua

tỉnh Bắc Ninh dài 70 km, lưu lượng nước hàng năm khoảng 5 tỷ m³. Sông

Cầu có mực nước trong mùa lũ cao từ 3 - 6 m, cao nhất là 8 m, trên mặt

ruộng 1 - 2 m, trong mùa cạn mức nước sông lại xuống quá thấp (0,5 - 0,8

m).

_ Sông Thái Bình: thuộc vào loại sông lớn của miền Bắc có chiều dài

385 km, đoạn chảy qua tỉnh Bắc Ninh dài 17 km. Do phần lớn lưu vực sông

bắt nguồn từ các vùng đồi trọc miền Đông Bắc, đất đai bị sói mòn nhiều nên

nước sông rất đục, hàm lượng phù sa lớn. Do đặc điểm lòng sông rộng, ít

dốc, đáy nông nên sông Thái Bình là một trong những sông bị bồi lấp nhiều

nhất. Theo tài liệu thực đo thì mức nước lũ lụt lịch sử sông Thái Bình đo

được tại Phả Lại năm 1971 đạt tới 7,21 m với lưu lượng lớn nhất tại Cát Khê

là 5000 m3

/s.

4

Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có các hệ thống sông ngòi nội địa như

sông Ngũ huyện Khê, sông Dân, sông Đông Coi, sông Bùi, ngòi Tào Khê,

sông Đồng Khởi, sông Đại Quảng Bình...

Với hệ thống sông này nếu biết khai thác trị thuỷ và điều tiết nước sẽ

đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tiêu thoát nước của tỉnh. Trong khi

đó tổng lưu lượng nước mặt của Bắc Ninh ước khoảng 177,5 tỷ m³, trong đó

lượng nước chủ yếu chứa trong các sông là 176 tỷ m³; được đánh giá là khá

dồi dào. Cùng với kết quả thăm dò địa chất cho thấy trữ lượng nước ngầm

cũng khá lớn, trung bình 400.000 m³/ngày, tầng chứa nước cách mặt đất

trung bình 3 - 5 m và có bề dày khoảng 40 m, chất lượng nước tốt. Toàn bộ

nguồn nước này có thể khai thác để phục vụ chung cho cả sản xuất và sinh

hoạt trong toàn tỉnh, trong đó có các hoạt động của đô thị.

Tài nguyên thiên nhiên:

Nguồn tài nguyên thiên nhiên của tỉnh Bắc Ninh qui về các dạng sau:

Tài nguyên rừng:

Tài nguyên rừng của Bắc Ninh không lớn, chủ yếu là rừng trồng.

Tổng diện tích đất rừng là 661,26 ha phân bố tập trung ở Quế Võ (317,9 ha)

và Tiên Du (254,95 ha). Tổng trữ lượng gỗ ước tính 3.279 m³, trong đó rừng

phòng hộ 363 m³, rừng đặc dụng 2916 m³.

Tài nguyên khoáng sản:

Bắc Ninh nghèo về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu chỉ có vật liệu xây

dựng như: đất sét làm gạch, ngói, gốm, với trữ lượng khoảng 4 triệu tấn ở

Quế Võ và Tiên Du, đất sét làm gạch chịu lửa ở thị xã Bắc Ninh, đá cát kết

với trữ lượng khoảng 1 triệu tấn ở Thị Cầu - Bắc Ninh, đá sa thạch ở Vũ

Ninh - Bắc Ninh có trữ lượng khoảng 300.000 m³. Ngoài ra còn có than bùn

ở Yên Phong với trữ lượng 60.000 - 200.000 tấn.

. Tài nguyên đất:

5

Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Bắc Ninh là 822,7 km2, trong đó

đất nông nghiệp chiếm 64%, đất lâm nghiệp chiếm 0,74%, đất chuyên dùng

và đất ở chiếm 28,4%, đất chưa sử dụng còn 0,81%.

Bảng: Cơ cấu sử dụng đất tỉnh Bắc Ninh năm 2005 (Nguồn: Sở

Tài nguyên và Môi trường Bắc Ninh)

Các loại đất Diện tích (ha) Cơ cấu (%)

Đất nông nghiệp 52.622,25 64,00

Đất nuôi trồng thủy sản 4.981,74 6,10

Đất lâm nghiệp 607,31 0,74

Đất chuyên dùng 13.836,76 16,80

Đất ở 9.517,44 11,60

Đất chưa sử dụng 668,72 0,81

Tổng số 82.271,12 100

1. Điều kiện dân cư xã hội.

1.1. Vài nét về lịch sử hình thành

Dưới các triều đại phong kiến trước đây, tỉnh Bắc Ninh được gọi là

Kinh Bắc mà lịch sử đã để lại những di sản văn hoá truyền thống phong phú

về mặt vật thể và phi vật thể với hệ thống thành quách ở thị xã Bắc Ninh,

phòng tuyến sông Cầu (sông Như Nguyệt) nổi tiếng thời Lý chống lại các

thế lực ngoại bang phương Bắc, hệ thống các đền chùa, miếu mạo ở các

vùng Từ Sơn, Bắc Ninh - Thị Cầu, Dâu Keo... và đặc biệt là hát dân ca quan

họ nổi tiếng cùng các lễ hội mang đậm bản sắc dân tộc như hội Lim, Đình

Bảng...

- Từ năm 1822 xứ Kinh Bắc được nhà Nguyễn đổi tên gọi thành tỉnh

Bắc Ninh, sau 2 năm trấn thành Bắc Ninh, thuộc thị xã Bắc Ninh ngày nay,

được xây dựng lại bằng đá ong và hiện diện vị thế của mình bằng cột cờ cao

17m.

- Dưới thời Pháp thuộc vào năm 1931 thị trấn Bắc Ninh được đổi tên

thành tỉnh Bắc Ninh. Thị xã Bắc Ninh được tổ chức thành một cứ điểm

6

trọng yếu về quân sự của Bắc Kỳ và là một trung tâm chính trị, kinh tế

vùng.- Năm 1938 thị xã Bắc Ninh được xếp vào thành phố thứ 5 của xứ Bắc

Kỳ sau các đô thị: thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, thành phố Nam

Định và thị xã Hải Dương.

- Sau hoà bình lập lại năm 1954, tỉnh Bắc Ninh nói chung và thị xã

Bắc Ninh nói riêng tiếp tục duy trì sự phát triển kinh tế suốt quá trình xây

dựng chính quyền nhân dân và chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc

- Vào năm 1963 tỉnh Bắc Ninh được sát nhập với tỉnh Bắc Giang

thành tỉnh Hà Bắc. Mặc dù không còn vị trí tỉnh lỵ như trước đây (lúc đó

Bắc Giang trở thành tỉnh lỵ của tỉnh mới sát nhập), nhưng thị xã Bắc Ninh

vẫn là một trung tâm kinh tế - xã hội quan trọng của Hà Bắc, nhất là trong

mối quan hệ giao lưu với thủ đô Hà Nội.

- Đến năm 1996 tỉnh Hà Bắc lại được chia lại thành hai tỉnh Bắc Ninh

và Bắc Giang theo Nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 (ngày

15 - 11 - 1996). Từ đó thị xã Bắc Ninh lại trở thành thị xã của tỉnh Bắc Ninh

mới.

Từ đó đến nay Bắc Ninh đã phát triển không ngừng bộ mặt đô thị hoá

của tỉnh mà tiêu biểu là việc xây dựng mới:

• Khu vực hành chính và các khu dân cư mới ở thị xã Bắc Ninh.

• Cải tạo và phát triển mạnh bộ mặt trung tâm của các thị trấn

huyện lỵ, nhất là thị trấn Từ Sơn.

• Đang hình thành và phát triển một số khu công nghiệp tập trung

quan trọng như khu công nghiệp Từ Sơn, Quế Võ.

• Hệ thống kỹ thuật hạ tầng được cải tạo và nâng cấp đáng kể

nhất là QL 1A, QL 1B, QL 18, QL 38, và 11 tuyến tỉnh lộ với tổng chiều dải

trên 350 km. Các hệ thống hạ tầng kỹ thuật cấp nước, cấp điện cũng được

đầu tư đáng kể.

7

• Hệ thống di tích lịch sử văn hoá lâu đời của xứ Kinh Bắc xưa

nhất loạt đã được khôi phục, bảo tồn và phát triển có hiệu quả thu hút khách

du lịch thập phương.

Ngoài ra với hàng trăm ngành nghề khác nhau của tỉnh Bắc Ninh

cũng được khuyến khích phát triển tạo điều kiện cho sự hình thành và phát

triển nhiều thi tứ trên sông Dân, ở Đông Hồ, Đình Bảng, Đa Hội, Tương

Giang, Phù Khê, Nội Duệ...

1.2. Dân cư và xã hội

Theo điều tra dân số 01/04/2009, Bắc Ninh có 1.024.151 người. Bao

gồm 503.200 nam (49,1%); 520.951 nữ (50,9%). Sau 10 năm, dân số Bắc

Ninh tăng thêm 82.045 người. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giữa hai cuộc tổng

điều tra (1999 và 2009) là 0,84%/năm. Dân cư khu vực thành thị chiếm tỷ

trọng 23,6%, khu vực nông thôn chiếm 76,4%...Mật độ dân số của tỉnh ngày

càng tăng, chỉ đứng sau Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Tiền năng phát

triển kinh tế nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của tỉnh lại dồi dào, đã tạo

điều kiện cho cư dân nơi đây phát triển. Bắc Ninh vốn là vùng có nhiều nghề

thủ công nổi tiếng, vùng đất “trăm nghề”. Hiện nay trên toàn tỉnh có trên

100 làng nghề, trong đó có 62 làng nghề truyền thống, nổi tiếng như: làng

tranh dân gian Đông Hồ, làng gốm Phù Lãng, làng đồng Đại Bái, làng rèn

Đa Hội, làng dệt Lũng Giang, Hồi Quan, Sơn mài Đình Bảng, chạm khắc

Đồng Kỵ, làng nghề tre trúc Xuân Lai….Ngày nay một số làng nghề đã bị

mai một, việc khôi phục và phát triển các làng nghề vừa để phát triển kinh tế

địa phương vừa để phát triển tiền năng du lịch được tỉnh quan tâm với việc

quy hoạch, xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề tập trung.

Về chất lượng lao động: Năm 2010 Lực lượng lao động tốt nghiệp

tiểu học 8,35%, tốt nghiệp trung học cơ sở 68,71%, tốt nghiệp trung học phổ

thông 21,94%. Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ sơ

cấp/học nghề trở lên chiếm 22,9% lao động qua đào tạo từ công nhân kỹ

thuật có bằng trở lên chiếm 14,16%.

8

Với những đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội như trên:

Kinh tế công nghiệp Bắc Ninh thời kỳ 1997 – 2010 phát triển có

nhiều yếu tố thuận lợi và khó khăn. Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh đã cố gắng phát

huy mọi tiềm năng và điều kiện thuận lợi cũng như khắc phục mọi khó khăn

để thúc đẩy công nghiệp của tỉnh phát triển:

*Những điều kiện thuận lợi:

- B¾c Ninh lµ mét tØnh ®ång b»ng n»m trong tam gi¸c kinh tÕ ®éng lùc

Hµ Néi - H¶i Phßng - Qu¶ng Ninh cã nhiÒu thÕ m¹nh vÒ giao th«ng, cã ®éi

ngò lao ®éng cã tr×nh ®é kh¸ vµ rÊt ®a ngµnh víi nhiÒu lµng nghÒ truyÒn

thèng.

- B¾c Ninh ®· sím x¸c ®Þnh ®îc nhiÖm vô träng t©m lµ tiÕn hµnh x©y

dùng quy ho¹ch ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi cña tØnh, ®ång thêi triÓn khai quy

ho¹ch c¸c ngµnh kinh tÕ trong ®ã cã quy ho¹ch ph¸t triÓn c«ng nghiÖp, quy

ho¹ch ph¸t triÓn líi ®iÖn ®Õn n¨m 2010, ®ång thêi cô thÓ ho¸ nh÷ng chÝnh

s¸ch khuyÕn khÝch ®Çu t cña Nhµ níc b»ng nh÷ng quy ®Þnh phï hîp víi ®Æc

thï ®Þa ph¬ng, t¹o ®îc m«i trêng thuËn lîi thu hót nhanh vµ nhiÒu dù ¸n vµo

®Çu t trªn ®Þa bµn.

- Sù chØ ®¹o ®iÒu hµnh tËp trung cña TØnh uû, UBND tØnh cïng víi sù

quan t©m gióp ®ì cña c¸c c¬ quan bé, ngµnh Trung ¬ng ®· ph¸t huy cã hiÖu

qu¶ nguån néi lùc cña ®Þa ph¬ng, t¹o bíc t¨ng trëng ®ét ph¸ trong lÜnh vùc

ph¸t triÓn c«ng nghiÖp, thóc ®Èy chuyÓn dÞch tÝch cùc c¬ cÊu kinh tÕ

trªn ®Þa bµn tØnh.

* Những khó khăn:

- Khi tØnh B¾c Ninh ®îc t¸i lËp, ®iÓm xuÊt ph¸t kinh tÕ thÊp, tû träng

c«ng nghiÖp míi chØ chiÕm 24,1% trong GDP, lùc lîng lao ®éng c«ng

nghiÖp chiÕm 6,32% lao ®éng x· héi trong tØnh.

- C«ng nghiÖp ®Þa ph¬ng cßn nhá bÐ, tiÕn ®é ®Çu t ®æi míi thiÕt bÞ

c«ng nghÖ diÔn ra cßn chËm, s¶n phÈm thiÕu søc c¹nh tranh trªn thÞ trêng,

tr×nh ®é qu¶n lý kinh doanh vµ tÝnh n¨ng ®éng cña ®éi ngò c¸n bé lµ chñ

doanh nghiÖp cßn h¹n chÕ.

9

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!