Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

hoạt động m&a trong lĩnh vực bưu chính viễn thông tại việt nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG I
Tổng quan về hoạt động sáp nhập và mua lại (M&A) của doanh nghiệp
I. Hoạt động sáp nhập và mua lại doanh nghiệp
1. Khái niệm hoạt động sáp nhập doanh nghiệp
1.1. Định nghĩa hoạt động sáp nhập doanh nghiệp
1.1.1. Theo quan niệm của thế giới
- David L. Scott định nghĩa hoạt động sáp nhập doanh nghiệp là sự kết hợp giữa
hai hay nhiều công ty mà toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ của (các) bên bán (bên bị
sáp nhập) được chuyển sang cho bên mua (bên nhận sáp nhập). Mặc dù bên nhận sáp
nhập sẽ có cơ cấu hoàn toàn khác sau vụ sáp nhập, nhưng nó vẫn duy trì sự tồn tại của
mình.1
- Từ điển Các khái niệm, thuật ngữ tài chính Investopedia thì có định nghĩa sau:
“Sáp nhập xảy ra khi hai doanh nghiệp, thường có cùng quy mô, đồng ý tiến tới
thành lập doanh nghiệp mới hơn là duy trì sở hữu và hoạt động của các công ty thành
phần. Chứng khoán của các công ty thành phần sẽ được xóa bỏ và doanh nghiệp mới sẽ
phát hành chứng khoán thay thế.”
Hai cách định nghĩa trên tuy có sự khác nhau ở chỗ còn hay chấm dứt sự tồn tại
của bên nhận sáp nhập, nhưng đối với quan niệm của thế giới, ở cả hai trường hợp họ
vẫn chỉ dùng từ “Merger”. Định nghĩa thứ ba sau đây cho thấy một cách hiểu tổng quát
hơn:
“Hoạt động sáp nhập xảy ra khi hai hay nhiều công ty kết hợp lại thành một
pháp nhân”.2
1
Andrew J. Sherman and Milledge A. Hart (2006), Merger and Acquisitions From A to Z -
Second Edition, AMACOM, trang 11.
2
Barb Bloemhof, Economics 2N03 - Concentration & Mergers.
1
Khóa luận tốt nghiệp
1.1.2. Theo quan niệm của Việt Nam
- Bộ Luật dân sự Việt Nam 2005 quy định về hoạt động “sáp nhập pháp nhân”
tại Điều 95: “Một pháp nhân có thể được sáp nhập (sau đây gọi là pháp nhân được sáp
nhập) vào một pháp nhân khác cùng loại (sau đây gọi là pháp nhân sáp nhập) theo quy
định của điều lệ, theo thỏa thuận giữa các pháp nhân hoặc theo quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền”. Sau khi sáp nhập, pháp nhân được sáp nhập chấm dứt hoạt
động và chuyển các quyền, nghĩa vụ dân sự cho pháp nhân sáp nhập.
- Điều 153 Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 quy định: “Một hoặc một số
công ty cùng loại (sau đây gọi là công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty
khác (sau đây gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại
của công ty bị sáp nhập”.
- Luật Cạnh tranh 2004 cũng đưa ra khái niệm Sáp nhập tại Điều 17 như sau:
“Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản,
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời
chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập”.
Khái niệm “pháp nhân cùng loại” hay “công ty cùng loại” được hiểu theo nghĩa
là các công ty cùng loại hình doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh
nghiệp. Như vậy, điều kiện tiên quyết để xảy ra một cuộc sáp nhập là các doanh nghiệp
phải cùng loại hình (cùng là công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh).
1.2. Đặc điểm
Theo quan điểm của các nhà lập pháp Việt Nam thì hoạt động sáp nhập là một
hình thức tích tụ nguồn lực của doanh nghiệp trên thị trường nhằm hình thành một chủ
2
Khóa luận tốt nghiệp
thể kinh doanh lớn hơn. Đó cũng là cách nhìn nhận chung của thế giới; nó là một chiến
lược cạnh tranh của doanh nghiệp để có sức mạnh thị trường. Vì vậy, hoạt động sáp
nhập mang một số đặc điểm như sau:
- Về chủ thể: Phải có ít nhất hai doanh nghiệp tự nguyện hoặc thỏa thuận tham
gia sáp nhập. Các doanh nghiệp này độc lập với nhau về mặt tài chính và hợp lại với
nhau để có được quy mô lớn hơn và sức cạnh tranh cao hơn. Sau khi sáp nhập, thương
hiệu của doanh nghiệp cũ vẫn duy trì và phát triển. Khi những điều kiện khách quan
của thị trường đòi hỏi, các doanh nghiệp có thể tự nguyện thỏa thuận sáp nhập nhưng
cũng có lúc xuất hiện sáp nhập mang tính thù địch (hostile takeover). Ở Việt Nam, hầu
hết các trường hợp sáp nhập xảy ra do quyết định mang tính hành chính của cơ quan
quản lý nhà nước.
- Về mục đích: Việc sáp nhập là để có thể tận dụng được lợi ích kinh tế theo
quy mô khi các doanh nghiệp kết hợp với nhau thành một pháp nhân duy nhất (thông
qua việc trao đổi các loại tài sản, trong đó cổ phiếu là loại tài sản thường được các
doanh nghiệp sử dụng), nhờ sản xuất trên quy mô lớn mà cắt giảm được chi phí sản
xuất trung bình. Hay mục đích đó có thể là tận dụng lợi ích kinh tế của kênh phân phối
để tạo ra lợi thế cạnh tranh mới. Đối với thông lệ quốc tế thì trong các giao dịch này
sau khi bên bán bị sáp nhập, nó có thể trở thành một chi nhánh (subsidiary) hoặc một
bộ phận của bên nhận sáp nhập chứ không nhất thiết phải xóa bỏ sự tồn tại của cả hai
doanh nghiệp để thành lập một doanh nghiệp mới. Tựu chung lại, mục đích cơ bản của
hoạt động sáp nhập là nhằm sở hữu toàn bộ một hoặc một số doanh nghiệp khác, giảm
bớt số lượng đối thủ cạnh tranh trên thị trường và gây hạn chế cạnh tranh.3
1.3. Các hình thức sáp nhập doanh nghiệp
Quy định của pháp luật Việt Nam tại Bộ Luật dân sự 2005, Luật Doanh nghiệp
2005, Luật Cạnh tranh 2004 hay Luật Đầu tư 2005 đều không phân loại cụ thể các hình
3
Andrew J. Sherman and Milledge A. Hart (2006), Merger and Acquisitions From A to Z -
Second Edition, AMACOM trang 11.
3
Khóa luận tốt nghiệp
thức sáp nhập doanh nghiệp mà chỉ đưa ra khái niệm, nhưng trên thế giới có ba kiểu
sáp nhập như sau:
1.3.1. Sáp nhập hàng ngang (Horizontal Merger)
Đây là loại sáp nhập xảy ra giữa hai công ty hoạt động trong cùng một ngành.
Sáp nhập hàng ngang hay được tìm thấy trong lĩnh vực ngân hàng, ví dụ như các vụ
sáp nhập giữa Chemical Bank và Chase, Nations Bank với BankAmerica, DaimlerBenz’s với Chrysler…4
Nhiều tài liệu còn phân loại hoạt động sáp nhập thành “Sáp
nhập mở rộng thị trường” và “Sáp nhập mở rộng sản phẩm”. Sáp nhập mở rộng thị
trường xảy ra giữa hai doanh nghiệp kinh doanh cùng một loại sản phẩm nhưng ở
những thị trường địa lý khác nhau; sáp nhập mở rộng sản phẩm là loại sáp nhập mà các
doanh nghiệp kinh doanh những sản phẩm khác nhau nhưng trong cùng một thị trường.
Từ việc phân tích loại hình sáp nhập hàng ngang, có thể thấy sáp nhập mở rộng thị
trường cũng chính là sáp nhập hàng ngang. Còn sáp nhập mở rộng sản phẩm là biểu
hiện cụ thể của hoạt động sáp nhập tổ hợp tập đoàn kinh tế sẽ được đề cập ở mục sau.
Sáp nhập hàng ngang mang lại một số lợi ích như sau:
- Tạo ra vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền: một doanh nghiệp có được vị trí thống
lĩnh hay độc quyền chứng tỏ nó có sự vượt trội so với các doanh nghiệp khác. Đặc biệt
trong trường hợp độc quyền tự nhiên – kết quả của quá trình cạnh tranh, tác động tích
cực của vị trí đó là đào thải những chủ thể yếu kém trên thị trường. Tuy nhiên, khi đạt
được vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền, doanh nghiệp có xu hướng lợi dụng vị trí đó để
làm giảm cạnh tranh, đặt giá hàng hóa ở mức giá độc quyền nhằm kiếm lợi về mặt kinh
tế, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và tạo ra một rào cản gia nhập ngành cao cho các
doanh nghiệp nhỏ. Đây lại là một tác động xấu đến nền kinh tế, đó chính là lý do các
quốc gia đều phải có các đạo luật quy định cấm những hành vi hạn chế cạnh tranh,
cạnh tranh không lành mạnh để đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng.
4
Vietnam M&A Network (2009), Cẩm nang Mua bán & Sáp nhập tại Việt Nam, NXB Tài
Chính, trang 6.
4
Khóa luận tốt nghiệp
- Nâng cao hiệu quả hoạt động: Lợi ích này có được nhờ sự cắt giảm chi phí
hoạt động khi đóng cửa những chi nhánh hoạt động kém hiệu quả, cắt giảm lao động
dư thừa, cắt giảm chi phí tiếp cận thị trường…
1.3.2. Sáp nhập hàng dọc (Vertical Merger)
Sáp nhập hàng dọc xảy ra giữa những doanh nghiệp hoạt động trong một chuỗi
cung ứng, ví dụ như giữa một công ty với nhà cung cấp hoặc nhà phân phối của mình.
Mục đích của loại sáp nhập này là doanh nghiệp muốn tự cung cấp phương tiện cho
những loại dịch vụ của mình. Trong lĩnh vực viễn thông đã xảy ra vụ sáp nhập hàng
dọc giữa công ty AT&T và Tel-Communication Inc (TCI) trong đó AT&T mua TCI –
một công ty truyền hình cáp – để cải thiện hệ thống cáp của TCI cung cấp dịch vụ điện
thoại trực tiếp đến khách hàng.5
Trong nhiều trường hợp như ví dụ trên, sau khi sáp nhập các doanh nghiệp
thường có xu hướng hoạt động theo hình thức công ty mẹ - công ty con, trong đó công
ty nhận sáp nhập đóng vai trò là công ty mẹ và giữ lại những hoạt động kinh doanh
sinh lời chính. Bằng hình thức này, các doanh nghiệp vẫn đạt được mục tiêu liên kết
nguồn lực để nâng cao hiệu quả mà không làm thay đổi quyền chủ động trong điều
hành.
1.3.3. Sáp nhập tổ hợp tập đoàn kinh tế (Conglomerate Merger)
Đây là dạng sáp nhập giữa những công ty không liên quan gì đến nhau. Kiểu sáp
nhập này có thể đem lại những lợi ích như sự đa dạng hóa ngành nghề hay lưu chuyển
nguồn vốn nội bộ từ khu vực có tốc độ tăng trưởng cao sang khu vực có tốc độ tăng
trưởng thấp hơn. Tuy nhiên rủi ro có thể gia tăng do có sự khác biệt sâu sắc giữa quy
trình sản xuất, thị trường tiêu thụ, văn hóa doanh nghiệp, v.v Để khắc phục những rủi
5
http://www.itgate.com.vn/index.aspx?u=nws&su=d&cid=84&id=27355: Những vụ sáp nhập
bất thành lớn nhất trong lĩnh vực CNTT-TT.
5
Khóa luận tốt nghiệp
ro và cải thiện hoạt động, xu hướng gần đây của loại hình sáp nhập này là chia tách
doanh nghiệp thành nhiều công ty con độc lập với công ty mẹ.
1.4. So sánh hình thức sáp nhập và hợp nhất doanh nghiệp
Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 còn quy định thêm về hoạt động hợp nhất
doanh nghiệp tại Điều 152: “Hai hay một số công ty cùng loại (sau đây gọi là công ty
bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một công ty mới (sau đây gọi là công ty hợp nhất)
bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty
hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các công ty bị hợp nhất”.
Nếu đem so sánh định nghĩa này với định nghĩa hoạt động sáp nhập doanh
nghiệp thì có thể thấy sự phân biệt hai hoạt động này theo quan điểm của các nhà lập
pháp chỉ là tương đối. Đối với hoạt động sáp nhập doanh nghiệp, khi công ty A và
công ty B sáp nhập lại với nhau, sẽ không còn sự tồn tại của công ty A nữa, chỉ còn tồn
tại pháp nhân B mà không hình thành pháp nhân mới. Còn khi A và B tiến hành hoạt
động hợp nhất thì hai công ty này sẽ cùng chấm dứt sự tồn tại của mình mà kết hợp
thành một pháp nhân mới là công ty C. Công ty B sau khi mua lại công ty A sẽ tự
quyết định sự tồn tại của công ty A và chính mình. Như vậy, hợp nhất thực chất là một
trường hợp đặc biệt của sáp nhập.
2. Khái niệm hoạt động mua lại doanh nghiệp
2.1. Định nghĩa hoạt động mua lại doanh nghiệp
2.1.1. Theo quan niệm của thế giới
- “Mua lại (Acquisition) là một giao dịch thương mại giữa các doanh nghiệp,
trong đó diễn ra hoạt động mua bán các loại tài sản bao gồm cơ sở vật chất, một bộ
6
Khóa luận tốt nghiệp
phận hoặc toàn bộ doanh nghiệp” (Theo David L. Scott, Wall Street Words: An A to Z
Guide to Investment Terms for Today’s Investor).6
- Một định nghĩa khác từ Từ điển Các khái niệm, thuật ngữ tài chính Investopia
chỉ ra rằng: “Mua lại là hoạt động thông qua đó, các công ty tìm kiếm lợi thế kinh tế
nhờ quy mô, hiệu quả và khả năng chiếm lĩnh thị trường. Khác với sáp nhập, các doanh
nghiệp đi mua sẽ mua doanh nghiệp mục tiêu, không có sự thay đổi về chứng khoán
hoặc sự hợp nhất thành một công ty mới.”
Ví dụ: Tháng 9 năm 2008, Bank of America đã mua lại ngân hàng Merrill
Lynch với giá 50 tỷ đôla Mỹ, sở hữu toàn bộ tài sản của ngân hàng này và trở thành
ngân hàng môi giới lớn nhất thế giới.7
2.1.2. Theo quan niệm của Việt Nam
Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 không đưa ra khái niệm mua lại doanh
nghiệp mà chỉ có quy định doanh nghiệp tư nhân được phép bán doanh nghiệp của
mình tại Điều 145: “Sau khi bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chưa thực
hiện, trừ trường hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thoả thuận
khác”. Bên cạnh đó, Điều 145 cũng quy định thêm người mua doanh nghiệp tư nhân
phải tiến hành đăng ký kinh doanh. Điều 17 khoản 3 của Luật Cạnh tranh 2004 đã bổ
sung và làm rõ khái niệm mua lại doanh nghiệp thông qua định nghĩa:
“Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài
sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của
doanh nghiệp bị mua lại”.
6
Andrew J. Sherman and Milledge A. Hart (2006), Merger and Acquisitions From A to Z -
Second Edition, AMACOM, trang 11.
7
http://dantri.com.vn/c76/s76-391109/bank-of-america-lai-lon-nho-merrill-lynch.htm: Bank of
America lãi lớn nhờ Merrill Lynch.
7
Khóa luận tốt nghiệp
2.2. Đặc điểm hoạt động mua lại doanh nghiệp
- Về chủ thể: Nếu như trong hoạt động sáp nhập hay hợp nhất, có thể có hơn hai
công ty cùng kết hợp lại thì đối với mua lại doanh nghiệp, chỉ có hai chủ thể là bên bán
và bên mua. Nếu như công ty A cùng lúc mua lại hai công ty là B và C thì đó đều là
mua lại doanh nghiệp nhưng là những giao dịch thương mại khác nhau.
- Về mục đích: Mục tiêu của bên đi mua là nhằm đạt được lợi thế kinh tế theo
quy mô, tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và mở rộng thị phần thông qua
việc thâu tóm một phần hoặc toàn bộ một doanh nghiệp nào đó. Hình thức thanh toán
trong các vụ mua lại có thể là tiền mặt, chứng khoán hoặc tài sản khác đem lại giá trị
cho bên mua. Bên mua chuyển tài sản có được từ bên bán vào phần vốn tăng thêm vào
tài sản của mình và mong đợi giá trị tài sản đó sẽ gia tăng tính thanh khoản cho doanh
nghiệp.
2.3. Các hình thức mua lại doanh nghiệp
2.3.1. Mua lại cổ phần, vốn góp
Đối với trường hợp này, bên mua phải đáp ứng đủ các điều kiện về đầu tư, kinh
doanh đối với tất cả các lĩnh vực của doanh nghiệp mục tiêu. Ở Việt Nam, những điều
kiện đó được điều chỉnh chủ yếu bằng pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật đầu tư.
Bên mua có thể mua lại toàn bộ tài sản của doanh nghiệp khác bằng tiền mặt. Như vậy,
bên bán sẽ chỉ còn lại tiền mặt và nợ (nếu có), và nó sẽ phải tự thanh lý mình hoặc đầu
tư vào một lĩnh vực khác.
2.3.2. Mua lại tài sản với tư cách là một hoạt động sản xuất kinh doanh
Khi mua lại một phần tài sản doanh nghiệp (bao gồm tài sản vật chất, hợp đồng,
các mối quan hệ kinh doanh) để vận hành một lĩnh vực sản xuất kinh doanh thì bên đi
mua chỉ phải đáp ứng những điều kiện đòi hỏi cho lĩnh vực của bộ phận bị mua lại đó.
“Hàng hóa” trong hình thức này có thể là các tài sản hữu hình (các hợp đồng, nhà
8