Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hiện trạng về Giống và cơ cấu dàn bò ở Nghệ An
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
KHOA HỌC KỸ THUẬT
2 Tạp chí chăn nuôi số 8 – 08
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
HIỆN TRẠNG VỀ GIỐNG VÀ CƠ CẤU ĐÀN BÒ Ở NGHỆ AN
Nguyễn Kim Đường*
1. MỞ ĐẦU
*
Trong các vật nuôi hiện đang được nuôi ở Việt
Nam nói chung và Nghệ An nói riêng, con bò
có nhiều ưu thế hơn các vật nuôi khác và vì vậy
nó giữ một vị trí quan trọng nổi bật. Hiện nay ở
Việt Nam có khoảng 5,5 triệu con bò, trong đó
ở Nghệ An là khoảng hơn 454.900 con (chiếm
gần 1/12 đàn bò Việt Nam). Ở Việt Nam đang
tồn tại nhiều giống bò: Vàng, lai Sind, H’mong,
u đầu rìu, Sind, Brahman, Holstein Friesian
(lang trắng đen Hà Lan-HF), Jersey, các bò lai
hướng sữa F1, F2, F3, lai Sind và các bò lai hướng thịt F1, F2, F3,... Trong đó, bò vàng chiếm
một tỷ lệ lớn, tiếp đến là bò lai Sind. Ở Nghệ
An đã có giống nội là bò vàng khả nổi tiếng, và
một tỷ lệ bò lai khoảng 34-35% tổng đàn (trong
đã chủ yếu là bò lai Sind).
Các giống bò nội của Việt Nam có ưu thế về
khả năng chịu đựng cao với sự khắc nghiệt của
thời tiết khí hậu, không đòi hỏi dinh dưỡng và
chăm sóc cao. Tuy nhiên, chúng có tầm vóc
nhỏ, khả năng cho sữa rất thấp, tỷ lệ thịt xẻ
thấp. Trong xu thế phát triển nâng cao số lượng
và chất lượng đàn bò, nhiều nhóm bò lai đã
được tạo ra. Chúng đã góp phần cải tạo tầm vóc
của đàn bò, tăng tốc độ sinh trưởng, tăng tỷ lệ
thịt xẻ,... Tuy nhiên, các con lai cũng đòi hỏi số
lượng và chất lượng thức ăn cao hơn và chăm
sóc nuôi dưỡng, tổ chức quản lý tốt hơn.
Để góp phần đánh giá tiềm năng của chăn nuôi
bò ở Nghệ An, trên cơ sở đó đề xuất các giải
pháp phát triển chăn nuôi bò bền vững ở đây,
chúng tôi đã tiền hành điều tra toàn diện về con
*
Trường Đại học Vinh.
bò và chăn nuôi bò ở Nghệ An. Trong bài này
chúng tôi đưa ra một số kết quả về chăn nuôi 2
giống bò chủ lực ở Nghệ An là bò vàng và bò
lai Sind.
2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu
Đàn bò đang được nuôi trong các hộ chăn nuôi
bò ở các điểm điều tra.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghệ An có 5 huyện vùng núi cao, 5 huyện
vùng núi, 7 huyện đồng bằng, 1 thị xã và 1
thành phố.
Chúng tôi đã chọn 2 huyện đồng bằng, 2 huyện
miền núi và 1 huyện vùng núi cao để điều tra.
Mỗi huyện chúng tôi chọn 3 xã (1 xã chăn nuôi
bò khá, 1 xã trung bình và 1 xã yếu). Mỗi xã
chúng tôi chọn ngẫu nhiên 50 hộ để thu thập số
liệu.
2.3. Nội dung điều tra
Các nội dung điều tra theo phiếu câu hỏi đã có
sẵn, riêng khối lượng của bò được tính bằng
phương pháp ước lượng theo công thức của
Viện Chăn nuôi (VCN, 1980) (dẫn từ Nguyễn
Kim Đường và cs, 1992) trên cơ sở các số đo
dài thân và vòng ngực mà chúng tôi đo được
trực tiếp trên từng con bò.
Điều tra đã được tiến hành từ tháng 7/2007 đến
3/2008.
2.4. Xử lý số liệu
Các số liệu thu được chúng tôi xử lý trên phần
mềm Excel.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN