Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hát Đúm của người Việt ở Bắc Bộ
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN ĐỖ HIỆP
HÁT ĐÚM CỦA NGƢỜI VIỆT
Ở BẮC BỘ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2013
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN ĐỖ HIỆP
HÁT ĐÚM CỦA NGƢỜI VIỆT
Ở BẮC BỘ
Chuyên ngành Văn hóa dân gian
Mã số: 62317005
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. LÊ HỒNG LÝ
PGS.TS. LÊ VĂN TOÀN
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình này do tôi làm dƣới sự giúp đỡ của tập thể
hƣớng dẫn khoa học. Nếu có gì sai phạm tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Đỗ Hiệp
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
Nxb : Nhà xuất bản
KHXH : Khoa học xã hội
Tr : trang
PL : Phụ lục
TS : Tiến sĩ
TSKH : Tiến sĩ khoa học
GS : Giáo sƣ
PGS : Phó giáo sƣ
ÂĐ : Âm điệu
2T : Quãng hai trƣởng
3t : Quãng ba thứ
4Đ : Quãng bốn đúng
5Đ : Quãng năm đúng
7t : Quãng bảy thứ
1
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC........................................................................................................1
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................2
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ HÁT ĐÚM VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN
CỨU HÁT ĐÚM CỦA NGƢỜI VIỆT..........................................................8
1.1. ĐỊNH NGHĨA HÁT ĐÚM ........................................................................ 8
1.2. GIẢ THUYẾT VỀ NGUỒN GỐC HÁT ĐÚM....................................... 11
1.3. KHÔNG GIAN VÀ THỰC TRẠNG CỦA HÁT ĐÚM ........................ 16
1.4. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU HÁT ĐÚM VÀ HƢỚNG NGHIÊN CỨU
TRỌNG TÂM CỦA LUẬN ÁN..................................................................... 28
Tiểu kết chƣơng 1............................................................................................40
CHƢƠNG 2. HÁT ĐÚM TRONG XÃ HỘI CỔ TRUYỀN......................42
2.1. PHƢƠNG THỨC DIỄN XƢỚNG .......................................................... 42
2.2. YẾU TỐ NGHỆ THUẬT TRONG LỜI CA ........................................... 48
2.3. NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA XÃ HỘI CỦA LỜI CA............................... 56
2.4. ÂM NHẠC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ÂM NHẠC VỚI LỜI CA....... 69
2.5. Ý NGHĨA CỦA HÁT ĐÚM TRONG XÃ HỘI CỔ TRUYỀN .............. 84
Tiểu kết chƣơng 2............................................................................................92
CHƢƠNG 3. SỰ PHỤC HỒI, BIẾN ĐỔI VÀ TỒN TẠI CỦA HÁT ĐÚM
TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI.......................................................................95
3.1. NHỮNG HÌNH THỨC PHỤC HỒI HÁT ĐÚM .................................... 95
3.2. NHẬN ĐỊNH TỪ SỰ PHỤC HỒI HÁT ĐÚM..................................... 106
3.3. VẤN ĐỀ ĐẶT RA................................................................................. 113
3.4. MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT VỀ VIỆC BẢO LƢU, THỰC HÀNH HÁT ĐÚM.. 120
Tiểu kết chƣơng 3..........................................................................................132
KẾT LUẬN ..................................................................................................134
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ...............................................
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN....................................................................140
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................141
PHỤ LỤC.....................................................................................................151
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hát Đúm là một loại hình dân ca đối đáp nam nữ phổ biến trong đời
sống của ngƣời Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ. Xƣa, trong xã hội cổ truyền,
nam nữ thanh niên khi gặp gỡ thƣờng dùng những câu hát Đúm để làm quen
và giao lƣu, bày tỏ tình cảm với nhau. Trong lao động sản xuất, trai gái cũng
thƣờng hát đối đáp với nhau nhằm giải tỏa sự mệt nhọc và làm vơi đi những
nỗi vất vả. Khi các làng quê mở hội vào mùa xuân, mùa thu, trai gái thƣờng tổ
chức ca hát góp vui cho hội làng. Những cuộc hát Đúm là cây cầu nối để họ
giao lƣu và xích lại gần nhau để rồi thêm yêu thƣơng nhau hơn. Hình thức hát
đối đáp nam nữ còn là khát vọng cầu mƣa thuận, gió hòa, nhân đa vật thịnh
của các cộng đồng cƣ dân nông nghiệp.
Ngoài những yếu tố tƣơng đồng với một số loại hình dân ca đối đáp
nam nữ khác, hát Đúm còn mang những nét riêng biểu hiện ở phƣơng thức
diễn xƣớng, lối tiến hành âm điệu, thủ pháp phổ thơ, nội dung lời ca... Bên
cạnh đề tài về tình yêu nam nữ, lời ca hát Đúm chứa đựng những tri thức bản
địa, phản ánh những hiểu biết của con ngƣời trong xã hội cổ truyền về thiên
nhiên đất nƣớc, về đời sống gia đình và xã hội, một số lời ca còn phản ánh nội
dung nghi lễ, chứa đựng sắc thái riêng, độc đáo. Trong quá trình phát triển,
hát Đúm đã gắn với những phong tục văn hóa địa phƣơng, góp phần làm
phong phú đời sống văn hóa tinh thần của ngƣời Việt.
Nhƣ chúng tôi đã đề cập, hát Đúm là một loại hình dân ca có vị trí phổ
biến và đã từng có sức sống mạnh mẽ trong xã hội cổ truyền nhƣng từ sau
năm 1945 cho tới những thập niên 60, 70 của thế kỷ XX và thời điểm trƣớc
Đổi mới (1986), loại hình dân ca này đã gần nhƣ không còn tồn tại trong đời
sống ngƣời Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ. Ở nhiều làng quê, trong ngày hội
làng và trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng đã vắng bóng những câu hát Đúm
3
của nam nữ thanh niên. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, việc tổ chức ca
hát của quần chúng nhân dân ở nhiều địa phƣơng trên đất nƣớc ta càng không
đƣợc khuyến khích, thậm chí còn bị cấm đoán vì lúc này cả nƣớc còn đang tập
trung cho chiến trƣờng miền Nam. Sau năm 1975, khi đất nƣớc đã thống nhất
thì trong một khoảng thời gian dài, nhiều lễ hội và những loại hình ca hát dân
gian nói chung cũng nhƣ hát Đúm nói riêng vẫn chƣa có điều kiện phục hồi.
Chỉ trong khoảng 20 năm trở lại đây, loại hình dân ca này mới đƣợc hồi sinh ở
một số địa phƣơng ven biển phía Đông Bắc Bộ do điều kiện kinh tế phát triển,
do sự cởi mở về chính sách của Nhà nƣớc, trong đó có cả chính sách về văn
hóa, đặc biệt là do nhu cầu tìm về với văn hóa truyền thống của những nhóm
cộng đồng lứa tuổi, chủ yếu là lớp trung niên và ngƣời cao tuổi, nhu cầu
hƣớng về quê nhà của những Việt kiều và những doanh nhân thành đạt.
Cho tới thời điểm hiện tại, đã có một số công trình nghiên cứu về hát
Đúm nhƣng vẫn còn có một số vấn đề chƣa thật sáng tỏ về loại hình dân ca
này, đặc biệt, diện mạo và ý nghĩa của hát Đúm trong xã hội cổ truyền và sự
tồn tại, biến đổi của nó trong xã hội hiện đại chƣa đƣợc phản ánh thật đầy đủ
và rõ nét.
Trong giai đoạn gần đây, cùng với sự thay đổi nhanh chóng của của đời
sống kinh tế, văn hóa xã hội, nhiều loại hình văn hóa phi vật thể nói chung và
hát Đúm nói riêng có nguy cơ mai một và mất đi, do đó cần nghiên cứu loại
hình dân ca cổ này nhằm bảo tồn những giá trị văn hóa tiêu biểu của nó trong
xã hội hiện đại.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi chọn đề tài Hát Đúm của người
Việt ở Bắc Bộ cho luận án của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu sâu thêm về nghệ thuật và những yếu tố văn hóa của hát Đúm
ngƣời Việt nhằm nêu bật diện mạo và ý nghĩa của nó trong xã hội cổ truyền.
4
Khảo sát sự phục hồi, biến đổi và tồn tại của hát Đúm, trên cơ sở thực
tế, đề xuất một số ý kiến bảo lƣu và thực hành hát Đúm trong xã hội hiện đại.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là hát Đúm của ngƣời Việt và những
khía cạnh liên quan.
Phạm vi nghiên cứu:
- Hát Đúm của ngƣời Việt và những khía cạnh liên quan tới nó trên
địa bàn là vùng châu thổ Bắc Bộ, cụ thể là 8 tỉnh, thành phố bao gồm: Phú
Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dƣơng, Hải Phòng, Quảng Ninh và
Thái Bình.
- Một số loại hình dân ca khác của ngƣời Việt có liên quan đến hát
Đúm nhƣ hát Ví, hát Xoan và hát Ví đúm của ngƣời Mƣờng ở một số địa
phƣơng thuộc tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình cũng đƣợc luận án tham khảo, so
sánh đối chiếu.
4. Cơ sở lý thuyết của đề tài
Dân ca đối đáp nam nữ là một thể loại phong phú, đa dạng trong kho
tàng dân ca của ngƣời Việt và các tộc thiểu số ở Việt Nam. Từ lâu, thể loại
này đã đƣợc nhiều học giả quan tâm nghiên cứu với những hƣớng tiếp cận
khác nhau. Một số công trình đã mang lại những giá trị khoa học nhất định.
Một trong những công trình tiêu biểu nghiên cứu về hội hát đối đáp nam nữ
của ngƣời Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ là công trình Hát đối của nam nữ
thanh niên ở Việt Nam của GS. TS. Nguyễn Văn Huyên. Đây là luận án tiến sĩ
mà ông đã bảo vệ xuất sắc tại Pháp năm 1934. Trong những vấn đề mà
GS.TS. Nguyễn Văn Huyên đã đề cập trong công trình này, chúng tôi chú ý
tới một số câu hỏi nghiên cứu mà ông đặt ra, đó là: Hội hát đối đáp của thanh
niên nam nữ diễn ra ở đâu? dƣới hình thức nào? trong những điều kiện nào và
phục vụ cho ai?. Đây là cơ sở lý thuyết mà chúng tôi dựa vào để nghiên cứu
5
hát Đúm. Nhƣ vậy, những vấn đề mà chúng tôi cần làm rõ trong luận án là:
Trong xã hội cổ truyền, hát Đúm đã có ở những địa phƣơng nào? nó đƣợc hát
ở đâu? nghệ thuật hát Đúm nhƣ thế nào? loại hình dân ca này có ý nghĩa gì
đối với những cộng đồng ngƣời Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ?
Chúng ta đều biết, mọi hiện tƣợng văn hóa đều không phải là “nhất
thành bất biến” mà chúng luôn vận động và biến đổi. Hiện nay, biến đổi văn
hóa thƣờng gắn với sự chuyển đổi xã hội và xu hƣớng hiện đại hóa, đô thị
hóa. Vấn đề này đã đƣợc nhiều học giả ở Việt Nam đề cập tới trong những
công trình nghiên cứu của mình. Chẳng hạn, trong công trình Sự biến đổi của
làng xã Việt Nam ngày nay ở Đồng bằng sông Hồng, GS.TS. Tô Duy Hợp đã
chỉ ra vấn đề cơ bản đó là sự tác động trực tiếp của quá trình đổi mới tới nền
kinh tế nông thôn và ảnh hƣởng của các chính sách kinh tế mới dẫn tới những
biến đổi trong hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hóa, các khuôn mẫu làng xã,
gia đình và dòng họ. Cụ thể hơn, khi nghiên cứu về những biến đổi trong văn
hóa ở các làng quê châu thổ Bắc Bộ, PGS. TS. Nguyễn Thị Phƣơng Châm đã
chỉ ra các chiều cạnh của biến đổi văn hóa thƣờng gắn với sự phát triển, quá
trình toàn cầu hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự chuyển đổi xã hội,
trong đó sự phục hồi văn hóa truyền thống ở các làng quê châu thổ Bắc Bộ là
xu hƣớng của văn hóa đƣơng đại. Khái niệm Tân truyền thống trong văn hóa
đƣơng đại cũng đã đƣợc tác giả đề cập đến với ý nghĩa nhƣ là “sự pha trộn,
kết hợp và làm mới các yếu tố văn hóa truyền thống để chúng có thể duy trì và
tồn tại trong xã hội đƣơng đại.”[8, tr. 23 - 24]. Ngoài ra, một nghiên cứu gần
đây của GS.TS. Đinh Xuân Dũng cũng chỉ ra vấn đề về sự thay đổi của cuộc
sống hiện đại đã và đang tác động, ảnh hƣởng và làm thay đổi nhịp sống bình
lặng ở các vùng thôn quê thuộc vùng châu thổ Bắc Bộ, nó đòi hỏi con ngƣời
phải “thay đổi về cách nghĩ, quan niệm, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu sáng tạo và
hƣởng thụ văn hóa.”[12, tr. 88]. Từ những trƣờng hợp cụ thể, các học giả đã
đề cập đến một vấn đề nổi bật đang đƣợc quan tâm hiện nay đó là: Biến đổi
6
văn hóa ở các làng quê châu thổ Bắc Bộ đang ít nhiều chịu sự ảnh hƣởng và
tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa cùng những cơ chế,
chính sách đổi mới của Nhà nƣớc. Bên cạnh đó, có thể thấy sự quay trở lại với
văn hóa truyền thống và tái tạo các yếu tố văn hóa truyền thống ở các làng quê
châu thổ Bắc Bộ đang trở thành một hiện tƣợng phổ biến trong bối cảnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhƣ vậy, biến đổi văn hóa trong xã hội công nghiệp
hiện đại là cơ sở lý thuyết để chúng tôi dựa vào nghiên cứu hát Đúm. Hiện
nay, loại hình dân ca này đã và đang đƣợc phục hồi dƣới những hình thức
nào? những yếu tố truyền thống nào của nó còn đƣợc giữ lại và nó đang biến
đổi, tồn tại nhƣ thế nào? hiện nay có những vấn đề gì đặt ra cho loại hình dân
ca này khi đời sống văn hóa xã hội đang có nhiều thay đổi?
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng những phƣơng pháp sau:
Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành âm nhạc học và văn hóa học.
Phƣơng pháp khảo sát thực địa:
- Thu thập thông tin, quan sát, tham dự những cuộc hát Đúm ở địa
phƣơng vào những thời điểm khác nhau.
- Phỏng vấn sâu những nghệ nhân, những ngƣời dân địa phƣơng với
thành phần lứa tuổi khác nhau, những nhà quản lý văn hóa và những ngƣời
làm công tác văn hoá cơ sở và khai thác diễn giải của những chủ thể diễn
xƣớng.
- Ghi âm, quay phim, chụp ảnh, thu âm, ký âm bài bản và ghi chép là
những thao tác đƣợc thực hiện.
Phƣơng pháp hồi cố, phục dựng: Khai thác hồi ức của những nghệ nhân
và ngƣời dân địa phƣơng, trên cơ sở đó phục dựng lại một bức tranh chung về
hát Đúm trong xã hội cổ truyền.
Phƣơng pháp phân tích, so sánh, đối chiếu và tổng hợp: Kế thừa các tƣ
liệu thành văn đã công bố, sử dụng các tƣ liệu diền dã, phân tích và sử lý
7
thông tin thu thập đƣợc từ thực địa, trên cơ sở đó có những đối chiếu, so sánh,
tổng hợp và nhận định khoa học.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án xác định không gian tồn tại trong quá khứ và thực trạng của
hát Đúm ngƣời Việt thông qua khảo sát đối tƣợng ở những tiểu vùng văn hóa
khác nhau nhƣ tiểu vùng đất Tổ trung du, tiểu vùng Kinh Bắc, tiểu vùng Kinh
đô Thăng Long, Hà Nội và tiểu vùng Hải Đông.
- Làm rõ diện mạo hát Đúm của ngƣời Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ
biểu hiện qua khía cạnh nghệ thuật, khía cạnh văn hóa và những yếu tố xã hội
liên quan.
- Nêu bật ý nghĩa của hát Đúm trong xã hội cổ truyền (từ năm 1945 trở
về trƣớc).
- Từ thực tế khảo sát trên một địa bàn tiêu biểu, chỉ ra những biểu
hiện phục hồi, biến đổi và xác định khả năng tồn tại của hát Đúm trong xã
hội hiện đại.
7. Bố cục luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án có
kết cấu gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan về hát Đúm và tình hình nghiên cứu hát Đúm của
ngƣời Việt
Chƣơng 2: Hát Đúm trong xã hội cổ truyền
Chƣơng 3: Sự phục hồi, biến đổi và tồn tại của hát Đúm trong xã hội
hiện đại.
8
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HÁT ĐÚM VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
HÁT ĐÚM CỦA NGƢỜI VIỆT
1.1. ĐỊNH NGHĨA HÁT ĐÚM
Trong những tƣ liệu liên quan, đã có một số các tác giả nêu định nghĩa
về hát Đúm nhƣ sau:
Cuốn Từ điển Văn hóa cổ truyền Việt Nam định nghĩa: “Hát Đúm là lối
hát dân gian có nhiều ngƣời tham gia.”[52, tr.312]. Theo chúng tôi, định nghĩa
này còn khá chung chung và chƣa đi vào bản chất của đối tƣợng. Nó chƣa cho
ta biết những dấu hiệu cơ bản để nhận biết về hát Đúm. Nếu là một “lối hát
dân gian có nhiều ngƣời tham gia” thì ở các địa phƣơng thuộc vùng châu thổ
Bắc Bộ có rất nhiều lối hát nhƣ vậy. Do đó, định nghĩa này sẽ dễ gây ra sự
nhầm lẫn giữa hát Đúm với các lối hát dân gian khác.
Cuốn Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Hát Đúm là lối hát dân gian
dịp hội hè đầu xuân ở miền Bắc, Việt Nam, do nhiều thanh niên trai gái
cùng tham gia, thƣờng ở dạng đối đáp.”[109, tr.784]. So với định nghĩa
trên, định nghĩa này đã đi vào những vấn đề cụ thể hơn. Các dấu hiệu mà
định nghĩa chỉ ra là: Không gian, thời điểm diễn xƣớng, hình thức diễn
xƣớng và chủ thể diễn xƣớng của hát Đúm. Tuy nhiên, định nghĩa này vẫn
chƣa nêu bật đƣợc những đặc điểm riêng của hát Đúm để có thể phân biệt
với những loại hát khác.
Trong cuốn Non nước Đồ Sơn, khi nghiên cứu về hát Đúm, PGS.TS.
Trịnh Cao Tƣởng có nêu một định nghĩa nhƣ sau:
Đúm nhƣ nghĩa từ nguyên của nó, là một tập hợp không có một số
lƣợng chính xác, ví nhƣ đúm mạ, đàn đúm… Đúm có liên hệ gần
gũi với các từ nhƣ: túm, tụm, cụm… Cho nên ngƣời ta cũng có khi
9
gọi hát Đúm là hát Túm, hay hát Đám. Nhƣ vậy, hát Đúm có nghĩa
là từng đám, từng cụm trai gái tập hợp nhau lại để hát trao
duyên.[96, tr. 43].
Với định nghĩa trên, tác giả chủ yếu tập trung giải thích ngữ nghĩa của
từ “Đúm” và “hát Đúm”. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu một dấu hiệu để nhận
diện hát Đúm, đó là hình thức tập hợp những đám, những cụm nam nữ thanh
niên lại để ca hát.
Trong bài nghiên cứu về hát Đúm ở Thủy Nguyên, Hải Phòng, nhạc sĩ
Vũ Loan có nêu định nghĩa: “Hát Đúm là lối hát giao duyên đối đáp giữa
một tốp nam và một tốp nữ. Một tốp chừng 5 đến 7 ngƣời nhƣng khi hát chỉ
cử một đại diện “đám” để hát. Có lẽ từ “Đúm” cũng gọi chệch từ chữ hát
“đám” mà ra.”[48, tr.58]. Định nghĩa này đã nêu ra hai dấu hiệu để nhận diện
hát Đúm đó là: Phƣơng thức diễn xƣớng và ngữ nghĩa của từ “Đúm”. Thứ
nhất, hát Đúm là loại hình ca hát dân gian có nhiều ngƣời tham gia nhƣng
khi hát, chỉ có một đại diện bên nữ và bên nam đối đáp với nhau, tức là đơn
đối với đơn. Thứ hai, từ “Đúm” đƣợc hiểu là từ đọc chệch từ chữ “Đám”, chỉ
“Đám ngƣời”.
Trong công trình Hát Đúm Thủy Nguyên, Hải Phòng, PGS.TSKH.
Phạm Lê Hòa và TS. Đỗ Lan Phƣơng có nêu định nghĩa nhƣ sau: “Hát Đúm là
hình thức hát giao duyên có sử dụng lối hát ví bằng thơ song thất lục bát hay
lục bát để biểu cảm.”[26, tr.48]. Với định nghĩa này, các tác giả đã chỉ ra mối
quan hệ gần gũi của hát Đúm với hát Ví trên phƣơng diện nghệ thuật.
Trong cuốn Dân ca người Việt - thể loại và hình thức, PGS. Tú Ngọc
có nêu định nghĩa: “Hát Đúm là lối hát đối đáp nam nữ dựa trên một làn điệu
phổ những thể thơ dân gian đơn giản, quen thuộc nhƣ thể bốn chữ, thể lục
bát.”[54, tr.132]. Với định nghĩa này, ông đã chỉ ra một trong những đặc điểm
10
nghệ thuật cơ bản của hát Đúm: Là loại hình dân ca có một làn điệu phổ
những thể thơ dân gian. Từ đây có thể phân biệt hát Đúm với những loại hình
dân ca đối đáp nhiều làn điệu.
Nhƣ vậy, trong phạm vi những tƣ liệu mà chúng tôi thu thập đƣợc, đã
có sáu định nghĩa về hát Đúm. Có thể nói, các tác giả đi trƣớc đã chỉ ra một số
dấu hiệu cơ bản để nhận diện về hát Đúm. Nhìn chung, các định nghĩa đều
giống nhau ở một điểm đó là coi hát Đúm là một “lối hát” hay một “hình thức
hát” đối đáp nam nữ. Tuy nhiên, để đi đến sự thống nhất và cách hiểu rõ ràng
hơn về đối tƣợng nghiên cứu, chúng tôi xin đƣa ra một định nghĩa nhằm làm
rõ khái niệm “hát Đúm” nhƣ sau: Hát Đúm là một loại hình dân ca đối đáp
nam nữ có một làn điệu; thường hát trong lễ hội và sinh hoạt văn hóa cộng
đồng vào mùa xuân, mùa thu; lời ca là những thể thơ dân gian phổ biến như
lục bát, song thất lục bát; kết cấu của lời thơ có mối quan hệ mật thiết với giai
điệu âm nhạc; ở trung du, khi diễn xướng, người hát còn sử dụng quả Đúm để
tung đi ném lại cho nhau.
Có thể diễn giải định nghĩa trên nhƣ sau:
Trƣớc hết, hát Đúm không chỉ là một lối hát hay một hình thức hát (nhƣ
trong định nghĩa mà các tác giả đi trƣớc đã nêu) mà nó còn là một loại hình
dân ca thuộc thể loại dân ca đối đáp nam nữ của ngƣời Việt ở Bắc Bộ. Khi
diễn xƣớng, nếu không kể các làn điệu vay mƣợn từ các loại hình dân ca khác
ở chặng “trở làn”(thay đổi làn điệu) thì hát Đúm chỉ sử dụng một làn điệu khi
đối đáp.
Có một dấu hiệu nghệ thuật mà định nghĩa chỉ ra là: Lời thơ và âm nhạc
của hát Đúm luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, tức là kết cấu của
lời thơ, ở đây là nhịp điệu và thanh điệu của lời thơ là cơ sở quan trọng, thậm
chí quyết định sự hình thành của giai điệu âm nhạc.
11
Một dấu hiệu khác mà định nghĩa chỉ ra là: Ở trung du, khi diễn xƣớng,
ngƣời hát thƣờng sử dụng một đạo cụ kèm theo là quả Đúm. Quả Đúm có vai
trò quan trọng và không thể thiếu trong quá trình diễn xƣớng. Từ đó, thuật
ngữ “hát Đúm” gắn với hàm nghĩa “quả Đúm”.
Ngoài ra, hát Đúm còn là một hiện tƣợng văn hóa. Trong đời sống văn
hóa tinh thần của ngƣời Việt, xuất phát từ nhu cầu giao lƣu kết bạn, kết tình,
nhu cầu chia sẻ tâm tƣ, tình cảm và thƣởng thức thơ ca dân gian truyền thống
của cộng đồng mà hiện tƣợng văn hóa này đã ra đời và phát triển. Nó trở nên
phổ biến và gần gũi, gắn bó với ngƣời dân lao động trong xã hội cổ truyền.
1.2. GIẢ THUYẾT VỀ NGUỒN GỐC HÁT ĐÚM
Ở các địa phƣơng thuộc vùng châu thổ Bắc Bộ có một loại hình dân
ca đối đáp nam nữ rất phổ biến, đó là hát Ví. Hát Ví đã định hình và phát
triển khá sớm trong đời sống của ngƣời dân lao động trong xã hội cổ
truyền. Theo nhà nghiên cứu Mã Giang Lân và Nguyễn Đình Bƣu:
Căn cứ vào quá trình ra đời của sinh hoạt dân ca đối đáp nam nữ nói
chung và một số đặc điểm riêng của sinh hoạt hát ví (thanh niên
nam nữ hát đối đáp, cầm tay nhau hát, tƣớc nón hay ô của nhau, hát
thách đố, nội dung hát chủ yếu là giao duyên) chúng ta tìm thấy
nguồn gốc lâu đời của loại hình ca hát này. Nói đúng hơn, loại sinh
hoạt văn nghệ này đã là một tập quán của nhân dân ta, của những
ngƣời nông dân nghèo, đi làm thuê làm mƣớn, đã phát triển khá
mạnh trong xã hội trƣớc. [42, tr.35].
Trong bài nghiên cứu về hát Ví ở vùng trung du và châu thổ sông Hồng,
PGS.TS. Phạm Trọng Toàn cũng nhận định: “Hát Ví là một thể loại dân ca
đƣợc ngƣời Việt sáng tạo từ lâu đời.”[92, tr.49]. Theo nhà nghiên cứu Hữu
Thu: “Đây là một loại dân ca có tính chất phổ biến và có tầm quan trọng đặc
biệt đối với đời sống lao động và tâm hồn, tình cảm của ngƣời nông dân đồng