Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hành vi ngôn ngữ trong kịch lưu quang vũ
PREMIUM
Số trang
266
Kích thước
9.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1307

Hành vi ngôn ngữ trong kịch lưu quang vũ

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

-----------------

HUỲNH THỊ DIỆU HIỀN

HÀNH VI NGÔN NGỮ

TRONG KỊCH LƯU QUANG VŨ

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Mã số: 82.29.02.0

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ HỌC

Đà Nẵng - Năm 2019

Công trình được hoàn thành tại

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS BÙI TRỌNG NGOÃN

Phản biện 1: PGS. TS. Trương Thị Nhàn

Phản biện 2: PGS. TS. Võ Xuân Hào

Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt

nghiệp thạc sĩ Ngôn ngữ học họp tại Trường Đại học Sư Phạm

vào ngày 18 tháng 10 năm 2019.

Có thể tìm hiểu luận văn tại:

- Thư viện Trường Đại học Sư Phạm – ĐHĐN

- Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư Phạm - ĐHĐN

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Phân tích diễn ngôn là hệ thống lí thuyết hiện đại của ngôn ngữ

học. Phân tích diễn ngôn đã tác động mạnh mẽ đến việc phân tích

ngôn ngữ văn chương. Lí thuyết phân tích diễn ngôn đã được đề cập

đến trong khá nhiều công trình khoa học nhưng trong thực tế hiện

nay, nó vẫn là một mảnh đất màu mỡ cần chú ý khai thác. Phân tích

diễn ngôn nghệ thuật, đặc biệt là kịch bản văn học hay kịch bản văn

chương vẫn còn là một vấn đề để ngỏ.

Một trong những đường hướng phân tích diễn ngôn là theo

hướng dụng học. Trong dụng học, nghiên cứu lí thuyết hành động

ngôn từ là bộ phận được quan tâm nhiều nhất, đặc biệt là hành động

tại lời.

Với 53 kịch bản, Lưu Quang Vũ là một kịch tác gia lớn của

những năm 1980. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về các khía

cạnh khác nhau đối với tác phẩm kịch Lưu Quang Vũ, tuy nhiên,

bình dị ngôn ngữ chưa được chú ý nhiều, trong đó có vấn đề về hành

vi ngôn ngữ.

Về mặt thực tiễn, văn bản nghệ thuật tồn tại ở dạng tĩnh nhưng

trong đời sống, nó là một diễn ngôn mang tính động, nhất là đối với

ngôn ngữ nghệ thuật kịch. Vận dụng thành tựu mới của ngôn ngữ học

vào việc nghiên cứu tác phẩm kịch Lưu Quang Vũ, chúng tôi lựa

chọn đề tài “Hành vi ngôn ngữ trong kịch Lưu Quang Vũ”

Ngôn ngữ trong một vở kịch bao gồm ngôn ngữ tác giả và

ngôn ngữ nhân vật. Bộ phận thứ hai cũng là bộ phận quan trọng nhất

là ngôn ngữ nhân vật. . Chúng tôi tin rằng việc vận dụng lí thuyết

phân tích diễn ngôn vào việc khảo sát ngôn ngữ nhân vật trong kịch

Lưu Quang Vũ sẽ giúp phát hiện thêm những nét độc đáo, góp phần

2

làm nên cái hay, cái đẹp, cái tinh tế của ngòi bút đầy chất thời sự và

sâu sắc của nhà viết kịch. Kết quả nghiên cứu của đề tài còn góp

thêm kinh nghiệm thực tiễn về việc phân tích diễn ngôn các tác phẩm

văn học thuộc thể tự sự.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Về dụng học và hành vi ngôn ngữ

Những công trình có tính chất cốt lõi đã được du nhập vào Việt

Nam từ những thập niên cuối thế kỉ XX. Chúng tôi chỉ xin nêu một

công trình lí thuyết tiêu biểu đã được giới thiệu bằng tiếng Việt tại

Việt Nam:

- George Yule (1997), Dụng học, NXB Đại học Quốc gia Hà

Nội. (Người dịch: Diệp Quang Ban).

Có rất nhiều công trình nghiên cứu bậc tiến sĩ và thạc sĩ chung

quanh các vấn đề về Dụng học của ngôn ngữ Việt và đối chiếu tiếng

Việt với tiếng nước ngoài

Việc nghiên cứu các hành vi ngôn ngữ là một trong những nội

dung cơ bản của Ngữ dụng học. Năm 1962, Austin cho ra đời công

trình “How do you things with words” (Hành động như thế nào bằng

lời nói). Tiếp theo, nhà triết học người Mĩ J.Searle đã phát triển nó.

Từ cuối những năm 80 trở lại đây, hành vi ngôn ngữ là vấn đề

được các nhà ngôn ngữ học Việt Nam quan tâm, có thể kể đến các

công trình sau:

- Đỗ Hữu Châu – Bùi Minh Toán, 1993, Đại cương ngôn ngữ

học, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.

- Nguyễn Đức Dân, 1998, Ngữ dụng học, tập một, Nxb Giáo dục.

- Nguyễn Thiện Giáp, 2004, Dụng học Việt Ngữ, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội.

- Đỗ Hữu Châu, 2009, Đại cương ngôn ngữ học, tập II: Ngữ

3

dụng học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

Những năm gần đây xuất hiện rất nhiều các luận án tiến sĩ,

luận văn thạc sĩ, bài báo khoa học lấy đề tài hành vi ngôn ngữ.

2.2. Về phân tích diễn ngôn

Theo tác giả Diệp Quang Ban trong cuốn “Giao tiếp diễn

ngôn và cấu tạo văn bản”, nhà ngôn ngữ học người Bỉ E.Buysen

là người đầu tiên sử dụng discourse như một khái niệm chuyên

môn trong tác phẩm Hoạt động nói năng và văn bản (1943). Từ

những năm sáu mươi của thế kỷ XX, nghiên cứu diễn ngôn (hay

còn gọi là phân tích diễn ngôn) trở thành một trào lưu khoa học

phát triển rầm rộ ở châu Âu

Một số công trình nghiên cứu về diễn ngôn của nước ngoài

được dịch sang tiếng Việt, chẳng hạn:

- David Nunan (1997), Dẫn nhập phân tích diễn ngôn, NXB

Giáo dục.

- Gillian Brown, George Yule (2002), Phân tích diễn ngôn,

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

Quan niệm về diễn ngôn được giới thiệu ở Việt Nam sớm nhất

có thể kể đến trong các công trình khoa học: Hệ thống liên kết văn

bản tiếng Việt của Trần Ngọc Thêm (1985); Văn bản và liên kết

trong tiếng Việt, Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản của Diệp

Quang Ban (1998, 2009), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 của Đỗ

Hữu Châu (2001), Phân tích diễn ngôn - một số vấn đề lí luận và

phương pháp của Nguyễn Hoà (2003), Dụng học Việt ngữ của

Nguyễn Thiện Giáp (2004), Từ điển tu từ - phong cách - thi pháp học

của Nguyễn Thái Hoà (2005),... Nhìn chung, những quan điểm, kiến

giải của tác giả có sức thuyết phục cao, góp phần đặt nền móng về lý

luận và phương pháp cho việc phân tích diễn ngôn.

4

2.3. Về kịch Lưu Quang Vũ

Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) là một tác gia thành công ở nhiều

thể loại: Văn, thơ, kịch,... Tuy nhiên, nhắc đến Lưu Quang Vũ thì

điều làm khán giả ghi dấu vẫn là những vở kịch làm mưa làm gió ở

những năm 80. Nghiên cứu về kịch của Lưu Quang Vũ phải kể đến

các công trình: “Kịch pháp Lưu Quang Vũ” (Phan Ngọc), “Đóng góp

của Lưu Quang Vũ đối với nền văn học kịch Việt Nam” (Lưu Khánh

Thơ),...

Về diễn ngôn trong kịch Lưu Quang Vũ, trên tư liệu chúng tôi

tiếp cận được thì có luận văn thạc sĩ của Nguyễn Hồng Yến (2014)

với đề tài: “Liên văn bản trong kịch Lưu Quang Vũ”.

Về hành vi ngôn ngữ trong kịch Lưu Quang Vũ, tác giả Chu

Thị Thùy Phương đã có luận văn“Hành động cầu khiến trong ngôn

ngữ kịch Lưu Quang Vũ”.

Như vậy có thể khẳng định, tuy đã được nghiên cứu ở nhiều góc

độ khác nhau nhưng nghiên cứu tổng quát hành vi ngôn ngữ trực tiếp và

gián tiếp trong kịch Lưu Quang Vũ vẫn chọn được tác giả nào nghiên

cứu. Vì những lý do trên, chúng tôi chọn: “Hành vi ngôn ngữ trong kịch

Lưu Quang Vũ” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn tập trung hướng vào những mục tiêu cụ thể sau:

- Hệ thống hóa, lựa chọn những thành tựu của các nhà ngôn

ngữ học trên thế giới và trong nước về lí thuyết về hội thoại, phân

tích diễn ngôn, hành vi ngôn ngữ

- Khảo sát về các lớp hành vi ngôn ngữ trong ngôn ngữ kịch

Lưu Quang Vũ .

5

- Góp phần soi sáng lí thuyết về ngôn ngữ trong tác phẩm văn

học dưới góc nhìn phân tích diễn ngôn, đặc biệt là các tác phẩm

thuộc thể loại kịch.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Hành vi ngôn ngữ trong hội thoại kịch Lưu Quang Vũ và tầm

tác động của hành vi ngôn ngữ đến giá trị biểu đạt.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Lời thoại của các nhân vật trong 3 vở kịch của Lưu Quang

Vũ “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, “Tôi và chúng ta”, “Ông vua

hóa hổ”.

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu đặc thù của luận văn là phương pháp

miêu tả ngôn ngữ học với các thao tác, thủ pháp cơ bản sau:

- Phương pháp phân tích miêu tả ngôn ngữ học.

- Phương pháp phân tích diễn ngôn.

- Thủ pháp thống kê.

- Thủ pháp phân tích thành tố trực tiếp.

Ngoài các phương pháp có tính chất chuyên môn trên, luận

văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chung

thông dụng.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Về khoa học:

- Nhận diện vai trò của hành vi ngôn ngữ trong lời thoại đối

với thể loại kịch.

- Đề xuất một cách phân tích về văn bản kịch.

Về thực tiễn:

- Áp dụng hệ thống lí thuyết phân tích diễn ngôn và hội thoại

6

vào việc phân tích văn học thực.

- Làm rõ thêm những đóng góp của Lưu Quang Vũ ở bình diện

ngôn ngữ học thể hiện qua kịch của tác giả, đem đến một cái nhìn

mới về hội thoại trong kịch Lưu Quang Vũ.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận; Phụ lục và Tài liệu tham khảo,

luận văn gồm 4 chương:

Chương 1: Một số vấn đề chung

Chương 2: Lớp hành vi ngôn ngữ tái hiện và lớp hành vi ngôn

ngữ điều khiển trong hội thoại kịch Lưu Quang Vũ.

Chương 3: Lớp hành vi ngôn ngữ cam kết, lớp hành vi ngôn

ngữ biểu cảm và lớp hành vi ngôn ngữ tuyên bố trong hội thoại kịch

Lưu Quang Vũ.

Chương 4: Tầm tác động của hành vi ngôn ngữ đối với nội

dung thể hiện trong kịch Lưu Quang Vũ

7

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Hành vi ngôn ngữ

1.1.1. Khái niệm hành vi ngôn ngữ

Có nhiều định nghĩa về câu của nhiều nhà nghiên cứu, tuy

nhiên, chúng tôi sử dụng định nghĩa của tác giả Đỗ Hữu Châu. Theo

đó, “Khi chúng ta nói năng là chúng ta hành động, chúng ta thực

hiện một loại hành động đặc biệt mà phương tiên là ngôn ngữ. Một

hành động ngôn ngữ được thực hiên khi một người nói (hoặc viết)

Sp1 nói ra một phát ngôn u cho người nghe (hoặc người đọc) Sp2

trong ngữ cảnh C.” [8, 88].

1.1.2. Phân loại hành vi ngôn ngữ

Nguyễn Đức Dân trong “Ngữ dụng học” đã nêu lý thuyết ngôn

ngữ ngữ học của Austin. Nhà ngôn ngữ học người Anh đã phân ra 3

loại hành vi ngôn ngữ trong một phát ngôn: tạo lời, tại lời và mượn lời.

1.1.2.1. Hành vi tạo lời

Trong “Ngữ dụng học” của Nguyễn Đức Dân, Austin đặt tên

cho hành động “nói một điều gì đó” là hành vi tạo lời. (xem [10, 17])

1.1.2.2. Hành vi tại lời

* Cách phân loại hành vi tại lời của J. L. Austin

Lí thuyết hành vi tại lời của Austin được Đỗ Thị Kim Liên đưa

ra trong “Giáo trình Ngữ dụng học”. Trong đó phân chia hành vi tại

lời ra 5 loại: Phán xử; Hành xử; Cam kết; Trình bày; Ứng xử. (xem

[21, 87])

* Cách phân loại hành vi tại lời của J. R. Searle.

Đỗ Hữu Châu đã chỉ ra năm nhóm hành vi ngôn ngữ theo sự

phân loại của Searle, bao gồm: Tái hiện; Điều khiển; Cam kết; Biểu

cảm; Tuyên bố. (xem [8, 126])

8

Trong luận văn này, đi sâu vào khảo sát và phân loại hành vi

ngôn ngữ tại lời, chúng tôi theo quan điểm phân loại của Searle và

dùng kiến giải của Đỗ Hữu Châu để khảo sát, phân loại và miêu tả.

1.1.2.3. Hành vi mượn lời

Theo Nguyễn Đức Dân, “hành vi mượn lời là hành vi phát ra

lời nói để nhằm đạt đến một hiệu quả nằm ngoài lời đó, tức mượn

phương tiện ngôn ngữ để gây ra một hiệu quả nào đó ngoài ngôn ngữ

ở các nhân vật giao tiếp.” [10, 17]

1.1.3. Điều kiện sử dụng các hành vi tại lời

Đỗ Hữu Châu trong “Đại cương ngôn ngữ học, tập II: Ngữ

dụng học” đã chỉ ra điều kiện sử dụng hành vi tại lời theo cơ sở lí

thuyết của Searle. Hành vi tại lời cũng có những điều kiện sử dụng

riêng. Searle đã đưa ra bốn điều kiện như sau:

- Điều kiện nội dung mệnh đề

- Điều kiện nội dung chuẩn bị

- Điều kiện chân thành

- Điều kiện căn bản (xem [8, 117])

1.1.4. Một số phương tiện đánh dấu hành vi ngôn ngữ tại lời

Có nhiều dấu hiệu xác định hành vi ngôn ngữ. Dưới đây là một

số dấu hiệu cơ bản:

1.1.4.1. Động từ ngữ vi

Đỗ Thị Kim Liên trong ‘‘Giáo trình Ngữ dụng học’’ đã nêu

khái niệm động từ ngữ vi. Động từ ngữ vi là động từ mà khi nói ra,

người ta thực hiên ngay cái hành động ở lời do chính động từ biểu

thị. (xem [21, 79 -80]).

1.1.4.2. Biểu thức ngữ vi tường minh và biểu thức ngữ vi

nguyên cấp

Đỗ Hữu Châu đã nêu nhận định về biểu thức ngữ vi: Biểu thức

9

ngữ vi là những công thức nói năng mà khi nói ra là ta nhằm thực

hiện một hành động ở lời nào đó. (xem [7, 22 - 23])

1.1.4.3. Những dấu hiệu ngữ vi

Nguyễn Đức Dân đã chỉ ra những dấu hiệu ngữ vi. Mỗi hành

vi tại lời ngoài động từ ngữ vi thì còn có những dấu hiệu ngữ vi khác

nữa, trong đó có cấu trúc ngữ pháp và những từ ngữ có quan hệ

lôgich - ngữ nghĩa nhất định. (xem [10, 49]).

1.1.4.4. Ngữ điệu

Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Cùng một tổ chức từ vựng, ngữ pháp

nhất định được phát âm với những ngữ điệu khác nhau sẽ cho ta các

biểu thức ngữ vi khác nhau ứng với các hành vi ngôn ngữ có đích ở

lời cụ thể”. [8, 94]

1.1.4.5. Quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc vị từ tham

thể tạo nên nội dung

Đỗ Hữu Châu đã nêu ra mối quan hệ giữa các thành tố trong

cấu trúc vị từ tham thể. Các đặc tính ngữ nghĩa như tự nguyện hay

cưỡng bức, tích cực hay tiêu cực, có lợi hay có hại,... của các hành

động đối với người tạo ra hành vi và với người nhận hành vi ngôn

ngữ đó cũng có giá trị như những dấu hiệu nhận biết hành vi ngôn

ngữ. (xem [8, 94 - 95]).

Trên đây là những dấu hiệu cơ bản để nhận biết hành vi ngôn

ngữ. Khi tìm hiểu và tri nhận hành vi ngôn ngữ, chúng ta phải biết

kết hợp các dấu hiệu ấy để xác định sao cho chính xác.

1.1.5. Hành vi tại lời trực tiếp, hành vi tại lời gián tiếp

1.1.5.1. Hành vi tại lời trực tiếp

Theo Đỗ Thị Kim Liên, hành vi tại lời trực tiếp là “hành động

có sự tương ứng giữa cấu trúc phát ngôn trên bề mặt với hiệu lực của

nó gây nên.” [21, 88].

10

1.1.5.2. Hành vi tại lời gián tiếp

Trong “Ngữ dụng học”, Nguyễn Đức Dân đã nêu quan điểm

của Searle: “Một hành vi tại lời được thực hiện gián tiếp qua một

hành vi tại lời khác sẽ được gọi là một hành vi ngôn ngữ gián tiếp.

[10, 60]

1.2. Hội thoại

1.2.1. Khái niệm

Nói như tác giả Đỗ Hữu Châu:“Hội thoại là hình thức giao

tiếp thường xuyên phổ biến của ngôn ngữ nó cũng là hình thức cơ sở

của mọi hoạt động ngôn ngữ . Các hình thức hành chức khác của

ngôn ngữ đều được giải thích dựa vào hình thức hoạt động căn bản

này” [8, 201].

1.2.2. Cấu trúc hội thoại

Đỗ Hữu Châu trong “Giáo trình giản yếu về Ngữ dụng học” đã

tiếp nhận quan điểm về các bậc trong hội thoại của lí thuyết phân tích

diễn ngôn, lí thuyết hội thoại Thụy Sĩ – Pháp để chỉ ra các đơn vị cấu

trúc trong hội thoại, bao gồm: Cuộc thoại, đoạn thoại, cặp trao đáp

(xem [7, 49]).

1.2.2.1. Cuộc thoại

Đỗ Hữu Châu cho rằng, cuộc thoại là đơn vị hội thoại bao

trùm, lớn nhất (xem [7, 49]).

1.2.2.2. Đoạn thoại

Đơn vị đoạn thoại đã được Đỗ Hữu Châu đưa ra trong “Ngữ

dụng học”. Về nguyên tắc có thể định nghĩa đoạn thoại là một mảng

diễn ngôn do một số cặp trao đáp liên kết chặt chẽ với nhau về ngữ

nghĩa hoặc về ngữ dụng. Về ngữ nghĩa, đó là sự liên kết chủ đề. Về

ngữ dụng, đó là tính duy nhất về đích (xem [31, 22]).

11

1.2.2.3. Cặp thoại

Đỗ Hữu Châu đã đưa ra nhận định: Cặp thoại là đơn vị

lưỡng thoại tối thiểu, với chúng, cuộc trao đổi, tức cuộc hội thoại

được tiến hành.

1.2.2.5. Hành vi ngôn ngữ

Trong “Ngữ dụng học”, Đỗ Hữu Châu đã nêu rõ: Hành vi ngôn

ngữ là đơn vị nhỏ nhất của ngữ pháp hội thoại. (xem [8, 321 - 322]).

1.3. Ngữ cảnh

1.3.1. Khái niệm

Khái niệm ngữ cảnh được Đỗ Hữu Châu nêu như sau: “Ngữ

cảnh là những nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp nhưng nằm

ngoài diễn ngôn” (xem [17, 161 - 181]).

1.3.2. Các nhân tố của ngữ cảnh

1.3.2.1. Nhân vật giao tiếp

Đỗ Hữu Châu đã nêu định nghĩa về nhân vật giao tiếp. Nhân

vật giao tiếp là những người tham gia cuộc giao tiếp bằng ngôn ngữ,

dùng ngôn ngữ để tạo ra lời nói, các diễn ngôn qua đó mà tác động

vào nhau. (xem [8, 17 - 19])

1.3.2.2. Hiện thực ngoài diễn ngôn

Đỗ Hữu Châu nhận định, trừ các nhân vật giao tiếp, tất cả các

yếu tố vật chất, xã hội, văn hoá có tính cảm tính và có nội dung tinh

thần tương ứng không được nói đến trong diễn ngôn của một cuộc

giao tiếp được gọi là hiện thực ngoài diễn ngôn (xem [8, 19 – 26]).

1.4. Ngôn ngữ kịch và hành động kịch

1.4.1. Ngôn ngữ kịch

Tác giả Đàm Thị Ngọc Ngà trong luận án “Cặp thoại Hỏi –

Trả lời, Cầu khiến - Hồi đáp trong kịch Lưu Quang Vũ “ đã trình bày

lí thuyết về ngôn ngữ kịch và hành động kịch. Ngôn ngữ là phương

12

tiện rất quan trọng để bộc lộ hành động kịch. Có thể nói đến 3 dạng

ngôn ngữ nhân vật: Đối thoại, độc thoại, bàng thoại (xem [23, 33]).

Ngôn ngữ trong kịch Lưu Quang Vũ chủ yếu là dạng đối thoại

và độc thoại, đây chính là dạng thoại mà luận văn của chúng tôi đi

sâu phân tích.

1.4.2. Hành động kịch

Tác giả Đàm Thị Ngọc Ngà đã nêu khái niệm hành động kịch.

Hành động (kịch) là những hoạt động bao gồm cả ngôn ngữ, cử chỉ,

thái độ, quan hệ... của con người trong cuộc sống xung quanh (xem

[23, 33]).

1.5. Vài nét tổng quan về cuộc đời và sự nghiệp kịch lưu

quang vũ

Lưu Quang Vũ sinh ngày 17 tháng 4 năm 1948 tại xã Thiệu

Cơ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Vĩnh Phú. Ngay từ khi còn nhỏ, Lưu Quang

Vũ đã bộc lộ năng khiếu thơ văn. Lưu Quang Vũ đã bén duyên sân

khấu, năm 1979 ông đã trở thành phóng viên của Tạp chí sân khấu.

Lưu Quang Vũ thử sức với thể loại kịch nói vào những năm sôi động

của đất nước, với vở kịch đầu tay Sống mãi tuổi 17 (1979). Ở tuổi đời

còn rất trẻ (ngoài ba mươi tuổi), nhà văn đã cho ra mắt vở kịch đầu

tay. Thành công của vở diễn đã tiếp cho ông niềm hứng khởi và năng

lượng để tiếp tục sáng tạo. Từ năm 1980 trở đi nhiều vở kịch của Lưu

Quang Vũ đã làm xôn xao dư luận.

13

CHƯƠNG 2

LỚP HÀNH VI NGÔN NGỮ TÁI HIỆN VÀ LỚP HÀNH VI

NGÔN NGỮ ĐIỀU KHIỂN TRONG HỘI THOẠI KỊCH

LƯU QUANG VŨ

Theo quan điểm của Searle, chúng tôi coi tiêu chí quan trọng

hàng đầu để nhận diện các hành vi ngôn ngữ là đích ở lời, sau đó là

tiêu chí hướng khớp ghép lời với hiện thực, trạng thái tâm lý được

thể hiện và nội dung mệnh đề. Ngoài ra, chúng tôi còn nhận diện

bằng những dấu hiệu hình thức, hay còn gọi là dấu hiệu ngữ vi.

2.1. Lớp hành vi ngôn ngữ tái hiện trong kịch lưu quang vũ

Hành vi tái hiện là hành vi xuất hiện nhiều nhất trong kịch Lưu

Quang Vũ, trong 1900 lượt lời khảo sát thì hành vi ngôn ngữ tái hiện

xuất hiện 1802 lần. So với các lớp hành vi ngôn ngữ khác thì hành vi

lớp tái hiện chiếm 42.89%. (Theo bảng 2.1). Trong đó gồm có hành

vi tái hiện trực tiếp và hành vi tái hiện gián tiếp.

2.1.1. Hành vi ngôn ngữ tái hiện trực tiếp trong kịch Lưu

Quang Vũ

Tham khảo các tác giả, chúng tôi tập hợp hành vi thuộc lớp tái

hiện trong kịch Lưu Quang Vũ thành 15 tiểu nhóm hành vi. (Chi tiết

xem bảng 2.2)

Căn cứ vào các tiêu chí phân loại hành vi tại lời, qua khảo sát

kịch Lưu Quang Vũ, chúng tôi thống kê tần số sử dụng các tiểu nhóm

hành vi tái hiện trực tiếp trong kịch Lưu Quang Vũ như sau:

Bảng 2.2. Tiểu nhóm hành vi ngôn ngữ tái hiện trực tiếp trong

kịch Lưu Quang Vũ

STT TIỂU LỚP

TẦN SỐ

SỐ LƯỢNG TỈ LỆ (%)

1 Đồng tình 60 3.48

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!