Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Góp Phần Nghiên Cứu Đa Dạng Các Loài Thuộc Họ Lan Orchidaceae Juss Nhằm Đề Xuất Giải Pháp Quản Lý Bảo Tồn Đối Với Một Số Loài Lan Chủ Yếu Tại Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên Đakrông Quảng Trị
PREMIUM
Số trang
69
Kích thước
2.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1198

Góp Phần Nghiên Cứu Đa Dạng Các Loài Thuộc Họ Lan Orchidaceae Juss Nhằm Đề Xuất Giải Pháp Quản Lý Bảo Tồn Đối Với Một Số Loài Lan Chủ Yếu Tại Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên Đakrông Quảng Trị

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN MẠNH HÙNG

GÓP PHẦN NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG CÁC LOÀI THUỘC HỌ

LAN (ORCHIDACEAE JUSS.) NHẰM ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP

QUẢN LÝ, BẢO TỒN ĐỐI VỚI MỘT SỐ LOÀI LAN CHỦ YẾU

TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN ĐAKRÔNG - QUẢNG TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, năm 2008

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN MẠNH HÙNG

GÓP PHẦN NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG CÁC LOÀI THUỘC HỌ

LAN (ORCHIDACEAE JUSS.) NHẰM ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP

QUẢN LÝ, BẢO TỒN ĐỐI VỚI MỘT SỐ LOÀI LAN CHỦ YẾU

TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN ĐAKRÔNG - QUẢNG TRỊ

Chuyên ngành: Lâm học

Mã số: 60-62-60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Cán bộ hướng dẫn khoa học:

TS. NGUYỄN TIẾN HIỆP

Hà Nội, năm 2008

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong số các họ thực vật của Việt Nam thì họ Lan (Orchidaceae Juss.)

là họ đa dạng nhất về ba phương diện là: thành phần loài, nguồn gen, sinh

thái. Về thành phần loài và nguồn gen, các nhà thực vật đã thống kê được 897

loài thuộc 152 chi. Con số này mới chiếm khoảng 78- 80% trong tổng số

1.000 - 1.100 loài dự đoán ở đây [1]. Hệ Lan của Việt Nam có 10 chi giàu loài

nhất là: Dendrobium, Bulbophyllum, Eria, Liparis, Habenaria, Oberomia, Coelogyne, Cymbidium, Calanthe, và Cleisostoma, mỗi chi có từ 20 tới 107

loài. Số loài của 10 chi đó chiếm 49,9% tổng số loài Lan đã biết ở Việt Nam.

Lan cũng rất đa dạng về sinh thái và thường được chia thành 3 nhóm chính:

nhóm loài sống bì sinh trên cây (Phong lan), sống trên đất (Địa Lan) và sống

trên đá (Thạch lan).Về mặt giá trị sử dụng thì Lan là nhóm thực vật rất có ý

nghĩa kinh tế và khoa học, hầu hết các loài Lan có hoa đẹp dùng làm cảnh và

là nguồn nguyên liệu để lai tạo ra nhiều loài lai có ý nghĩa kinh tế; nhiều loài

dùng làm dược liệu quí như: Lan Kim tuyến (Anoectochilus spp.), Hoàng

Thảo (Dendrobium spp.), Lan một lá (Nervillia sp.) và nhiều chi khác như:

Bletilla, Cymbidium, Eulophia, Flickingeria, Goodyera, Habenaria, Ludisia, Peristylus và Rhomboda. Tất cả các loài Lan hoang dại đều được xếp trong

danh lục đỏ thế giới và hầu hết đều nằm trong các nhóm khác nhau của Công

ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã (CITES) [7]. Chương trình môi trường của Liên hợp quốc - Trung tâm theo dõi bảo tồn thế

giới ( UNEP- WCMC- World Conservation Monitoring Centre) đã có khuyến

cáo Việt Nam cần phải bảo vệ và sử dụng bền vững 100 loài Lan quí nằm

trong các cấp bậc bảo tồn khác nhau từ hiếm tới gần tuyệt chủng [25]. Chính

những điều nêu trên đã khẳng định vai trò và giá trị nổi bật của các loài Lan

đối với thế giới thực vật và con người. Trong những năm gần đây, Chính phủ

Việt Nam đã thành lập hệ thống các Vườn quốc gia và Khu bảo tồn thiên

2

nhiên rộng khắp trên cả nước song tình trạng suy thoái đa dạng sinh học vẫn

là mối lo ngại của các nhà khoa học và toàn xã hội [4], trong đó, họ Lan có số

loài bị đe doạ cao nhất, có số loài tuyệt chủng cao nhất. Khu bảo tồn thiên

nhiên (BTTN) Đakrông thuộc vùng Trung Trường Sơn nổi tiếng với kiểu

rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới như một vùng đất giàu có về đa dạng

sinh vật và còn đầy bí ẩn, cần được tiếp tục khám phá. Nghiên cứu tính đa

dạng thực vật ở Khu BTTN Đakrông nói chung và nghiên cứu đa dạng các

loài họ Lan nói riêng có một ý nghĩa quan trọng, là cơ sở để đánh giá tài

nguyên sinh học trong vùng, chỉ ra được quy luật phân bố của chúng cũng

như mối quan hệ với các hệ thực vật ở các vùng lân cận, từ đó xây dựng các

biện pháp quản lý, bảo vệ và khai thác thích ứng. Hiện nay, theo thống kê thì

KBTTN Đakrông có khoảng 1.053 loài thực vật bậc cao có mạch, trong đó

họ Lan có 35 loài [11]. Nằm trong khu vực được đánh giá là có tính đa dạng

sinh học cao, nhưng so với hệ Lan của VGQ Cúc Phương có 56 chi và 109

loài [19] và VQG Bạch Mã có 70 chi với 180 loài [9] thì con số 35 loài Lan

của Khu BTTN Đakrông chắc chắn là chưa phải là con số thực [11] . Để góp

phần kiểm kê số lượng loài Lan có thực tại khu BTTN Đakrông, đánh giá tình

trạng bảo tồn và đề xuất các giải pháp quản lý, bảo tồn bền vững tính đa dạng

của chúng tại khu BTTN Đakrông, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Góp

phần Nghiên cứu đa dạng các loài thuộc họ Lan (Orchidaceae Juss.) nhằm

đề xuất giải pháp quản lý, bảo tồn đối với một số loài Lan chủ yếu tại Khu

bảo tồn thiên nhiên Đakrông - Quảng Trị"

3

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Nghiên cứu về Lan ở trong nước và vùng lân cận

Hệ Lan của Việt Nam rất đa dạng về mặt địa lý thực vật, các đại diện

đều gặp trong cả 6 tiểu vùng địa lý thực vật khác nhau của Việt Nam: Tây

Tạng - Vân Nam, Nam Trung Hoa, Bắc Đông Dương, Trung Trường Sơn,

Nam Trường Sơn, Nam Đông Dương [1], từ độ cao mực nước biển lên tới các

độ cao của các đỉnh Phan Si Pang, Chu Yang Sinh, Ngọc Linh. Hệ Lan của

Việt Nam cũng rất đa dạng về môi trường sống và thường được chia thành 3

nhóm chính: nhóm loài sống bám trên cây (Phong lan), sống trên đất (Địa

Lan) và sống bám trên đá (Thạch lan). Tuy nhiên cũng có loài sống cả trên đá

và đất hay trên đất và bì sinh v.v…Trong nghiên cứu thành phần loài Lan của

Việt Nam và khu vực liền kề có rất nhiều công trình nghiên cứu, trong số đó

chúng tôi chỉ đề cập đến một số công trình Tiêu biểu. Ngay từ năm 1790, khi

nghiên cứu hệ thực vật Nam Bộ, Joanis Loureiro đã công bố 5 chi: Aerides, Galeola, Phaius, Renanthera và Thrixspermun thuộc họ Lan của Việt Nam.

Các chi này hiện vần còn nguyên giá trị khoa học [22]. Muộn hơn trên 100

năm, phải kể đến công trình lớn “Thực vật chí Đông dương” (Flore Générale

de l’Indochine) do Lecomte chủ biên. Công trình này đã và đang được các

nhà nghiên cứu Thực vật Việt Nam và thế giới đang sử dụng. Trong công

trình này, Gagnepain đã mô tả 485 loài thuộc 96 chi Lan của Đông Dương

[21]. Sau đó, năm 1992, Seidenfaden đã công bố 800 loài thuộc 140 chi Lan

ở Đông Dương trong cuốn sách “Lan Đông Dương” (The Orchids of

Indochina) [24]. Đây là 2 công trình lớn liên quan đến nghiên cứu Lan của

Việt Nam và Đông Dương. Các năm sau đó cũng có một vài công trình

nghiên cứu có liên quan đến họ Lan của Việt Nam. Như “The Genus

Paphiopedilum” của Phillip Cribb có đề cập mô tả đến 11 loài và 2 thứ lan hài

ở Việt Nam [20]. Hay “Các chi họ Lan (Orchidaceae) của Thái Lan, Lào,

4

Campuchia và Việt Nam” (Orchid Genera of Thailand, Laos, Cambodia and

Vietnam) của A.Schuiteman E.F. de Vogel xuất bản năm 2000 có đưa ra

thông số các loài Lan của Việt Nam hiện có khoảng 751 loài thuộc 142 chi

Lan [23]. Một công trình lớn phải kể đến là “Cây Cỏ Việt Nam” của GS.

Phạm Hoàng Hộ tái bản năm 2000 đã mô tả 799 loài thuộc 142 chi Lan của

Việt Nam [8]. Trong khoảng từ năm 1984 đến nay, một loạt các công trình

của GS. L. V.Averyanov được công bố liên quan tới nghiên cứu Lan Việt

Nam, đặc biệt là phát hiện những loài Lan mới đối với khoa học, các loài Lan

có nguy cơ bị đe dọa và các loài mới bổ sung cho hệ thực vật Việt Nam. Tuy

nhiên đó chỉ là các công trình được công bố dưới dạng các bài báo khoa học.

Ngay từ năm 1990 ông đã nêu lên danh lục về Lan Việt Nam với các tên

khoa học cập nhật [15]. Tới năm 1994, ông công bố cuốn sách “Identification

guide to Vietnamese orchids (Orchidaceae Juss.)”. Trong công trình này ông

đã mô tả một số loài mới và kiểm kê được 718 loài thuộc 132 chi Lan của

Việt Nam [16]. Đây là công trình nghiên cứu lớn đầu tiên về Lan của Việt

Nam trong giai đoạn mới. Năm 2003 trong “Trích yếu được cập nhật hóa về

các loài Lan của Việt Nam” (Updated checklist of the orchids of Vietnam) thì

Leonid V.Averyanov và Anna L.Averyanova mới lên danh lục mới, kiểm kê

được 897 loài thuộc 152 chi Lan đã biết ở Việt Nam [1]. Trong công trình

này, ông đã nêu lên tên khoa học chính xác cũng như số lượng của các chi và

loài trong họ Lan của Việt Nam dựa trên các mẫu vật đã thu được và thời gian

nghiên cứu liên tục tại Việt Nam. Con số này mới chiếm khoảng 75 - 80%

trong tổng số 1000 - 1100 loài dự đoán [1]. Điều này được chứng minh bằng

sự phát hiện một chi mới và 17 loài Lan mới cho khoa học từ những nghiên

cứu về hệ thực vật Việt Nam trong thời gian từ năm 2000 tới 2004 và góp

phần khẳng định Việt Nam là trung tâm đa dạng và đặc hữu Lan quan trọng ở

vùng Đông Nam Á [18]. Hệ Lan của Việt Nam có 10 chi giàu loài nhất là:

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!