Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Giáo trình bệnh truyền nhiễm - Chương 4
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Chương 4
PHÒNG CHỐNG BỆNH TRUYỀN NHIỄM
I. Các phương pháp phòng bệnh truyền nhiễm
1. Nguyên tắc chung của công tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm
Nguyên lý công tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm là vận dụng những kiến
thức về ba pha của chu trình truyền lây mầm bệnh và các giai đoạn của quá trình sinh
dịch vào công tác thực tiễn.
Bệnh truyền nhiễm xảy ra được là do ba khâu của quá trình sinh dịch: nguồn
bệnh, các nhân tố trung gian truyền bệnh và động vật cảm thụ, và sự liên hệ giữa ba khâu
đó. Thiếu một trong ba khâu hoặc thiếu sự liên hệ giữa hai trong ba khâu đó thì dịch
không xảy ra được.
Nguồn bệnh là khâu đầu tiên và chủ yếu, là xuất phát điểm của quá trình sinh
dịch. Nhân tố trung gian truyền bệnh nối liền nguồn bệnh với cơ thể cảm thụ làm cho quá
trình sinh dịch thực hiện thuận lợi. Động vật cảm thụ là yếu tố làm cho dịch biểu hiện ra,
đồng thời nó lại biến thành nguồn bệnh làm cho quá trình sinh dịch được nhân lên, được
thúc đẩy mạnh hơn.
Trên cơ sở phân tích vai trò và sự liên hệ giữa các khâu trên, công tác phòng
chống bệnh truyền nhiễm phải nhằm thực hiện cho được việc xóa bỏ một hoặc nhiều
khâu, hoặc cắt đứt sự liên hệ giữa các khâu với nhau trong quá trình sinh dịch. Chỉ cần
cắt đứt một khâu hoặc cắt đứt sự liên hệ giữa những hai khâu, cũng đủ làm cho quá trình
sinh dịch không thực hiện được. Đó là nguyên lý cơ bản của mọi biện pháp phòng chống
bệnh. Đương nhiên, chỉ giải quyết được một cách căn bản việc đó khi nhận thức của con
người được nâng cao.
Khi chưa có dịch các biện pháp phòng bệnh truyền nhiễm đều nhằm đề phòng
dịch xuất hiện. Chủ chăn nuôi, chủ động vật chuyên chở phải chấp hành các yêu cầu thực
hiện các biện pháp phòng dịch được quy định trong Pháp lệnh thú y, các Nghị định thi
hành Pháp lệnh và Điều lệ phòng chống dịch bệnh cho động vật, trong đó việc xây dựng
vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh là trách nhiệm của mọi cá nhân, tổ chức và cơ quan quản
lý nhà nước liên quan ngành chăn nuôi. Các cá nhân và tổ chức chăn nuôi động vật phải
đăng ký xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật và phải chấp hành các quy định
của pháp luật về thú y đối với vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật. Các tổ chức, cá
nhân có hoạt động liên quan vùng an toàn dịch bệnh động vật phải chấp hành các quy
định của pháp luật về thú y đối với vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật. Chính phủ có
chương trình quốc gia về khống chế, thanh toán một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm của
động vật, nhằm bảo đảm hiệu quả khống chế và thanh toán các dịch bệnh nguy hiểm của
động vật và những bệnh từ động vật lây sang người, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu động vật
và sản phẩm động vật, bảo đảm giảm dần số ổ dịch, số động vật mắc bệnh, tiến tới thanh
toán dịch bệnh. Trong việc xây dựng chương trình này Chính phủ có chỉ đạo các các bộ,
ngành có liên quan phối hợp Bộ Nông nghiệp và PTNT và Bộ Thủy sản trong việc xây
dựng chương trình quốc gia về khống chế, thanh toán dịch bệnh động vật. Bộ Nông
nghiệp và PTNT và Bộ Thủy sản xây dựng chương trình quốc gia về khống chế, thanh
toán dịch bệnh động vật trình Chính phủ phê duyệt và chỉ đạo thực hiện chương trình.
Các cơ quan quản lý nhà nước về thú y ở trung ương (Cục Thú y đối với dịch bệnh động
vật trên cạn và Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản đối với dịch
bệnh động vật dưới nước và lưỡng cư), UBND các cấp, Chi cục Thú y và Chi cục Quản
lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản, các tổ chức và cá nhân chăn nuôi động
vật tùy theo quyền hạn và trách nhiệm của mình có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện,
thanh tra, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện, tổ chức thực hiện, tuyên truyền phổ biến
hướng dẫn và thực hiện các biện pháp khống chế, thanh toán dịch bệnh động vật.
Khi dịch đã xuất hiện, muốn phòng bệnh lây lan rộng thì cần thực hiện các biện
pháp chống dịch nhằm dập tắt dịch, bao gồm, một mặt, tiêu diệt nguồn bệnh (điều trị
bệnh cho các động vật bệnh hoặc giết hủy hay giết mổ bắt buộc động vật bệnh) và, mặt
khác, phòng bệnh cho các động vật chưa mắc bệnh. Các biện pháp phòng dịch và biện
pháp chống dịch liên quan mật thiết với nhau. Các biện pháp tiêu diệt nguồn bệnh một
mặt là để thanh toán dịch nhưng đồng thời cũng bảo đảm cho động vật khỏe không bị lây
bệnh nên phòng ngừa dịch lan rộng. Các biện pháp phòng bệnh truyền nhiễm ở nước ta
đã được quy định trong Điều lệ phòng chống dịch bệnh cho gia súc và gia cầm trước đây
và Pháp lệnh thú y hiện nay, cũng như các văn bản liên quan do Nhà nước ban hành.
Để thực hiện các biện pháp phòng dịch cần thực hiện những biện pháp tổng hợp
tác động đến nhiều khâu của quá trình phát sinh dịch: đối với nguồn bệnh (vật mang
trùng khi chưa có dịch, cũng như vật mang trùng và vật bệnh khi có dịch), đối với đường
truyền lây và đối với động vật mẫn cảm.
2. Đối sách đối với nguồn bệnh
2.1. Với vật mang trùng
Đối với nguồn bệnh phải tiêu diệt hoặc hạn chế nguồn bệnh gieo rắc mầm bệnh ra
ngoài. Khi chưa có dịch phát ra, nguồn bệnh chỉ có thể là những vật mang trùng. Khi đó,
đối với vật mang trùng cần phải thực hiện các biện pháp dưới đây.
Phát hiện sớm, chủ động và tích cực. Phải có kế hoạch định kỳ phát hiện vật
mang trùng. Phát hiện động vật mang trùng rất khó. Có thể dùng phương pháp vi sinh vật
học để xét nghiệm các chất bài tiết, bài xuất,... nhưng kết quả thường không chắc chắn vì
con vật mang trùng chỉ bài xuất mầm bệnh một cách định kỳ. Có thể dùng phương pháp
huyết thanh học phát hiện kháng thể và kháng nguyên đặc hiệu trong một khoảng thời
gian nhất định. Tuy nhiên, cần chú ý rằng các phản ứng huyết thanh học phát hiện kháng
thể tuy dễ thực hiện nhưng kết quả thường khó giải thích. Phát hiện kháng nguyên đặc
hiệu thường dễ giải thích hơn nhưng việc thực hiện thường khó hơn do phản ứng thường
có độ nhạy thấp hơn và sự bài xuất mầm bệnh (kháng nguyên) từ vật sống mang trùng
không phải khi nào cũng xảy ra. Mầm bệnh có thể phát hiện một cách tương đối chắc
chắn hơn nhờ phương pháp chẩn đoán dị ứng đối với những bệnh có phản ứng dị ứng như
lao, tỵ thư, sẩy thai truyền nhiễm,... Phương pháp cho kết quả nhanh và nhạy hơn cả là
các phương pháp phân tích axit nucleic đặc hiệu mầm bệnh (PCR, RT-PCR, PCRRFLP,...) nhưng cũng còn nhiều trở ngại do sự bài xuất mầm bệnh từ vật mang trùng
không ổn định, xét nghiệm lại đòi hỏi tuyệt đối không được bị ô nhiễm từ những xét
nghiệm cũ trước đó và, vì vậy, thường đắt tiền. Vì vậy, phát hiện kháng nguyên bằng các
phản ứng huyết thanh học trực tiếp từ bệnh phẩm hoặc từ lứa cấy vi sinh vật mầm bệnh
đã được phân lập còn tiếp tục có thể là biện pháp được lựa chọn trong điều kiện hiện nay.
Cách ly triệt để những con vật đã phát hiện có mang trùng. Ở nhiều nước, những
con vật có phản ứng dương với bệnh lao, sẩy thai truyền nhiễm, tỵ thư được tập trung
thành đàn và nuôi riêng trong những trang trại cách ly. Nếu số lượng động vật mang
trùng ít thì có thể giết thịt. Việc cách ly con vật mang trùng với con khỏe ở nước ta còn
gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, các cơ sở chăn nuôi tập trung bắt buộc phải có khu
chuồng nuôi cách ly. Nông hộ có thể vận dụng biện pháp cách ly gián tiếp như khi mua
thịt chợ đưa về nhà trong mọi trường hợp loại bỏ một cách triệt để lá hoặc giấy bao gói
hoặc thực phẩm nguồn gốc động vật khác mua từ chợ,... khỏi sự tiếp xúc với gia súc, gia
cầm của mình. Cần nghi ngờ rằng thịt có thể được lấy từ động vật không sạch bệnh.
Điều trị dự phòng những con vật mang trùng, nhất là những động vật quý đắt tiền.
Một số con vật mang trùng có khi có thể tự nhiên lành bệnh (bệnh sẩy thai truyền nhiễm),
một số có thể phát hiện triệu chứng và phải xử lý. Với những bệnh thường có hiện tượng
mang trùng, nếu không có phương pháp tốt để phát hiện mầm bệnh khi động vật còn sống
thì cần có biện pháp giải quyết ngay những con mắc bệnh khi xảy ra dịch (giết mổ bắt
buộc). Đối với những con mang trùng là dã thú hoặc côn trùng, ve bét,... thì phải dùng
mọi biện pháp tiêu diệt và có biện pháp ngăn ngừa chúng tiếp xúc với gia súc, gia cầm.
Với động vật mang trùng một số bệnh truyền nhiễm có tính lây thấp, ẩn tính và có
thể tái phát bất thường do genom virut tái tổ hợp vào nhiễm sắc thể ký chủ (như bệnh
bạch huyết bò,...) và những biện pháp điều trị không đưa lại kết quả mà chỉ làm duy trì
mầm bệnh (hay nguồn bệnh) trong tập đoàn thì cần thực hiện biện pháp giết mổ dần (giết
hủy chậm) và không sử dụng động vật vào mục đích lấy giống.
2.2. Các biện pháp đối với ổ dịch
Các biện pháp chống dịch truyền nhiễm được thực hiện ở ổ dịch thường nhằm
mục đích tiêu diệt nguồn bệnh, đồng thời phòng ngừa mầm bệnh lây lan sang những động
vật khỏe, không cho ổ dịch lan rộng hoặc khởi nguồn ổ dịch khác.
Các biện pháp chống dịch bao gồm phát hiện bệnh, tiêu diệt nguồn bệnh (điều trị
hoặc giết hủy động vật bệnh, hoặc áp dụng song song cả hai biện pháp), làm suy yếu hoặc
tiêu diệt các nhân tố trung gian truyền bệnh và làm tăng sức đề kháng của cơ thể động
vật. Các biện pháp đó cần được thực hiện khẩn trương, cùng một lúc thì mới đạt mục đích
dập tắt dịch.
a. Đối với động vật bệnh
Phải phát hiện sớm, khai báo nhanh, cách ly kịp thời và điều trị triệt để hoặc giết
hủy hay giết mổ bắt buộc theo hướng dẫn của chuyên môn thú y.
Phát hiện bệnh sớm: Phải dùng mọi biện pháp chẩn đoán để phát hiện bệnh đúng
và sớm. Nếu chẩn đoán còn nghi ngờ, chưa có điều kiện xác định bệnh chắc chắn thì
cũng phải có kết luận sơ bộ chẩn đoán và có biện pháp đề phòng bệnh lây lan. Nguyên
tắc cần tuân thủ đối với dịch bệnh truyền nhiễm là một khi có con vật sốt chưa rõ nguyên