Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Giải phát thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong bối cảnh mới của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc
tế, việc xây dựng và phát triển các khu công nghiệp (KCN) là một hướng đi
đúng đắn, là hướng phát triển có ý nghĩa quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước góp phần đưa Việt Nam trở thành một
nước công nghiệp hiện đại.
Những năm qua, nền kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng cao, GDP tăng
bình quân 7,5%/năm tăng cao hơn 0,6% so với tốc độ tăng trưởng bình quân của
5 năm 1996-2000, thu nhập của người dân được cải thiện, tỷ lệ thất nghiệp giảm
mạnh, lạm phát được kìm hãm… Trong sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ
ấy, KCN là một điểm sáng, đóng góp to lớn cho tăng trưởng kinh tế, giữ vai trò
quan trọng trong định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ -
công, nông, ngư nghiệp; cơ cấu lao động; tăng khả năng thu hút vốn đầu tư; tăng
khả năng tiếp nhận công nghệ hiện đại; kinh nghiệm quản lý tiên tiến; tạo việc
làm cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo; thúc đẩy xuất khẩu…
Miền Trung Việt Nam gồm 14 tỉnh từ Thanh Hoá đến Bình Thuận, chiếm
khoảng 29,1% diện tích tự nhiên và 23,6% dân số cả nước cũng đang xây dựng
và phát triển các KCN nhằm phát triền kinh tế vùng nói riêng và cả nước nói
chung. Miền Trung là cầu nối giữa hai vùng trọng điểm kinh tế miền Bắc và
miền Nam, là cửa ngõ ra biển Đông cho các quốc gia tiểu vùng sông Mê Kông
mở rộng, thế nên việc phát triển kinh tế miền Trung có một vai trò to lớn. Đóng
góp cho sự thịnh vượng của miền Trung, 22 KCN trong vùng đang làm tốt
nhiệm vụ thu hút đầu tư để đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu của vùng. Có thể nói
với lợi thế bờ biển dài, lại nằm trên hệ thống giao thông quan trọng của cả nước,
với sự phát triển mạnh mẽ của các cảng biển, sân bay… doanh nghiệp trong các
KCN miền Trung có ưu thế rất lớn trong việc xuất khẩu hàng hoá ra thị trường
thế giới.
Sinh viên thực hiện: Bùi Thị Lành Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
1
Tuy nhiên với đặc thù và những lợi thế của mình miền Trung vẫn chưa
thực sự bứt phá đi lên. Sự thiếu chủ động và phù hợp trong hoạt động thúc đẩy
xuất khẩu đã khiến cho trị giá xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền
Trung vẫn còn cách xa hai vùng còn lại, mới chỉ chiếm gần 5% kim ngạch xuất
khẩu của các KCN cả nước. Do vậy đề tài: “Giải phát thúc đẩy xuất khẩu của
doanh nghiệp trong các KCN miền Trung” sẽ đưa ra một cách nhìn tổng thể về
thực trạng hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền
Trung, qua đó để có hướng đi phù hợp nhằm đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu của
các doanh nghiệp này.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về KCN - thúc đẩy xuất khẩu và thực trạng
thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN trên địa bàn miền Trung
Việt Nam, mà đề xuất các giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh
nghiệp nằm trong các KCN miền Trung.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài cần thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về thúc đẩy xuất khẩu và sự cần thiết phải thúc
đẩy xuất của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp miền Trung.
- Phân tích và đánh giá thực trạng thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp
trong các khu công nghiệp miền Trung, từ đó rút ra những mặt được, mặt
hạn chế cũng như những nguyên nhân hạn chế của hoạt động thúc đẩy
xuất khẩu của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp miền Trung.
- Trên cơ sở triển vọng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền
Trung, đề tài đề xuất các giải phát nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp trong các KCN miền Trung.
Sinh viên thực hiện: Bùi Thị Lành Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
2
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của doanh
nghiệp trong các khu công nghiệp miền Trung.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ năm 2003, một số KCN miền Trung mới cơ bản xây dựng xong CSHT
và bắt đầu đi vào hoạt động nên bài tập trung nghiên cứu vào hoạt động chính là
thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp ở miền Trung
Việt Nam từ năm 2003 đến nay.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm
phương pháp luận cơ bản. Ngoài ra, bài sử dụng phương pháp hệ thống, tổng
hợp để hệ thống lý luận về thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN
miền Trung; phương pháp luận về phân tích hoạt động thúc đẩy xuất khẩu và
xây dựng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động thúc đẩy xuất khẩu… từ đó vận dụng
vào luận giải các vấn đề thực tiễn về thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong
các KCN miền Trung
5. KẾT CẤU CỦA BÀI VIẾT
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham
khảo, đề tài được chia thành 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận về thúc đẩy xuất khẩu và sự cần thiết thúc đẩy
xuất khẩu của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp
- Chương II: Thực trạng hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp
trong các khu công nghiệp miền Trung
- Chương III: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong các khu
công nghiệp miền Trung
Sinh viên thực hiện: Bùi Thị Lành Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
3
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU VÀ SỰ CẦN
THIẾT THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
Ngày nay, xu thế hội nhập đang là một xu thế tất yếu. Xu thế này như một làn
gió lan rộng khắp thế giới làm cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra
ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng. Tất nhiên xu thế này đã tạo rất nhiều các cơ hội
to lớn nhưng cũng không ít thách thức cho mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia. Vì
vậy lựa chọn giải pháp thúc đẩy xuất khẩu là một trong những lựa chọn hàng đầu
của các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển để tiến nhanh trên con
đường hội nhập. Trong chương 1, bài sẽ đi hệ thống hóa cơ sở lý luận về xuất
khẩu và sự cần thiết thúc đẩy xuất khẩu của các doanh nghiệp trong các khu
công nghiệp.
Để đạt được mục tiêu trên, đầu tiên chương 1 sẽ giới thiệu về hình thức khu
công nghiệp với đặc điểm và hoạt động của các doanh nghiệp trong khu công
nghiệp. Tiếp theo, bài sẽ luận giải về xuất khẩu từ khái niệm, hình thức đến các
nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Trên cơ sở đó bài đi đến khái quát
về hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của các doanh nghiệp trong KCN với những
biện pháp thúc đẩy và các chỉ tiêu đánh giá. Cuối cùng bài đưa ra một số kinh
nghiệm thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN ở Trung Quốc và sự
cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN.
1.1. KHU CÔNG NGHIỆP
1.1.1. Quá trình hình thành và khái niệm về KCN
Sau chiến tranh thế giới thứ II, chủ nghĩa tư bản ở trong thời kỳ cạnh tranh
tìm kiếm và phân chia lại thị trường thế giới. Các nước tư bản gia sức bành
trướng thương mại trên phạm vi toàn thế giới. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sản
xuất trong nước sang các nước khác là mục tiêu quan trọng để phát triển công
Sinh viên thực hiện: Bùi Thị Lành Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
4
nghiệp của các nước tư bản trẻ. Hơn nữa, do tính chất toàn cầu hóa chưa cao,
nên việc sử dụng nhân công giá rẻ ở các nước thuộc địa như một yếu tố giảm chi
phí sản xuất chưa thật cần thiết trong các ngành công nghiệp so với việc tìm
kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, cung cấp nguyên liệu, tài nguyên cho công
nghiệp chính quốc. Vì vậy, hoạt động thương mại quốc tế trong giai đoạn này rất
phát triển, các nhà tư bản chưa chú trọng nhiều đến việc mở rộng thị trường đầu
tư phát triển sản xuất ở nước ngoài.
Xu thế toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng với quy mô và tốc độ ngày càng
lớn, đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tự hóa thương mại và đầu tư. Xu thế hội
nhập đã khiến cho các nền kinh tế càng phụ thuộc vào nhau nhiều hơn và đều
theo xu hướng mở cửa. Bên cạnh đó, sự phát triển của cuộc cánh mạng khoa học
công nghệ đã tạo nên một cuộc chạy đua giữa các quốc gia, nhất là các nước tư
bản phát triển. Các nước phát triển có lợi thế về trình độ công nghệ cao, vốn
nhiều nhưng lại phải đối mặt với chi phí nhân công cao, đối mặt vói sụ khan
hiếm về tài nguyên thiên nhiên. Các yếu tố này đã thúc đẩy các doanh nghiệp
của các nước phát triển tìm kiếm cơ hội đầu tư ra nước ngoài để giảm bớt chi phí
sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh ở nước tiếp nhận đầu tư, tìm kiếm thị trường
mới, nguồn nguyên nhiên liệu mới nhằm thu lợi nhuận cao hơn. Sự phát triển
nhanh chóng của cuộc cách mạng thông tin, bưu chính viễn thông và phương
tiện vận tải đã khắc phục được khoảng cách về không gian, giúp các doanh
nghiệp xử lý thông tin kịp thời, chính xác. Do vậy, đã tạo nên một nhu cầu
chuyển dịch dòng vốn đầu tư chảy từ các nước phát triển sang các nước đang
phát triển.
Trong khi đó, các nước đang phát triển do thiếu vốn, thiếu kỹ thuật công
nghệ tiên tiến, thiếu cán bộ quản lý và công nhân lành nghề có trình độ cao để
khai thác tài nguyên thiên nhiên và tận dụng những lợi thế sẵn có của mình để
phát triển kinh tế, vì vậy các nước này khó có thể xây dựng được ngay những
điều kiện và yếu tố để sản xuất những sản phẩm công nghiệp đủ sức cạnh tranh
trên thị trường thế giới.
Sinh viên thực hiện: Bùi Thị Lành Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
5
Như vậy, có điểm gặp nhau về nhu cầu phát triển kinh tế giữa các nước phát
triển và nước đang phát triển. Sự thôi thúc tìm kiếm nguồn nhân công giá rẻ và
nguyên liệu cũng như các thị trường mới đã thúc đẩy các nước phát triển di
chuyển các cơ sở sản xuất công nghiệp dùng nhiều lao động, tài nguyên ra nước
ngoài. Còn các nước đang phát triển, thấy được lợi thế và hạn chế của mình, đã
cố gắng tạo ra một môi trường kinh tế thích hợp để thu hút vốn đầu tư từ bên
ngoài nhằm giải quyết những khó khăn về kinh tế và thực hiện mục tiêu CNH –
HĐH.
Để sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp công nghiệp đều cần có một cơ
sở hạ tầng kỹ thuật, điều kiện tự nhiên và xã hội xác định. Trên thực tế, có rất
nhiều hình thức tổ chức và quy hoạch các doanh nghiệp sản xuất như hình thức
phân tán, hội tụ theo cụm công nghiệp, hình thức tập trung có trung tâm chung
(thực chất là KCN). Thời gian đầu, các doanh nghiệp công nghiệp của các nước
đang phát triển do hạn chế về vốn nên có quy mô vừa và nhỏ được bố trí ở
những địa điểm không phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế cả về quy hoạch
và lãnh thổ. Các doanh nghiệp công nghiệp phân bố phân tán, khả năng xử lý ô
nhiễm và bảo vệ môi trường thấp, thêm vào đó, các chi tiêu của Chính phủ cần
phải tập trung vào việc phát triển cơ sở hạ tầng. Vì vậy để đáp ứng yêu cầu trên,
việc phát triển các doanh nghiệp công nghiệp tập trung vào một khu vực nhất
định theo quy hoạch phát triển, nhằm tiết kiệm trong đầu tư, tiết kiệm đất đai, dễ
dàng kiểm soát và có biện pháp bảo vệ một trường thích hợp là một giải pháp
hữu hiệu nhất.
Bởi vậy các nước đang phát triển cần tạo một môi trường thuận lợi cho các
nhà đầu tư để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước theo một quy hoạch nhất
định, phù hợp với mục tiêu phát triển KT – XH.
Các nước đang phát triển đã thành lập các khu vực đặc biệt với những ưu
đãi nổi bật về tài chính, thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhằm thu hút đầu tư
và phát triển công nghiệp bền vững. Các KCN đã bắt đầu hình thành ở các nước
Sinh viên thực hiện: Bùi Thị Lành Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
6
đang phát triển. Đến những năm 50 của thế kỷ XX, các KCN đã bắt đầu xuất
hiện ở châu Á, đi đầu là Singapore năm 1951, tiếp đến là Malaisia (1954), Ấn
Độ (1955). Cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế,
KCN xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, do vậy mà khái niệm về KCN ở
các nước trên thế giới rất khác nhau.
Khái niệm thứ nhất: KCN là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất
công nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công
nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở,
trường học, bệnh viện… Về thực chất mô hình này là khu hành chính – kinh tế
đặc biệt như KCN Batam ở Indonesia, các công viên công nghiệp ở Đài Loan,
Thái Lan và một số nước Tây Âu.
Khái niệm thứ hai: KCN là khu vực lãnh thổ hữu hạn, trong đó tập trung
các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân
cư sinh sống. Mô hình KCN này được tìm thấy ở một số nước như Malaixia,
Indonesia, Thái Lan, Đài Loan, Philippin…
Còn ở Việt Nam, KCN cũng có khá nhiều các khái niệm khác nhau. Theo
Quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm theo Nghị định 36/CP ngày
24/4/1997, Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất
hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh
giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng
Chính phủ quyết định thành lập. Theo luật đầu tư 2005, KCN là khu chuyên sản
xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có
ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ. Và gần
đây nhất Nghị định 29/2008 NĐ – CP đã nêu rõ KCN là khu chuyên sản xuất
hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh
giới địa lý xác định, được thành lập theo một trình tự thủ tục nhất định. Cũng
theo nghị định này, KCN và KCX được gọi chung là KCN, trừ những trường
hợp có quy định cụ thể.
Sinh viên thực hiện: Bùi Thị Lành Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
7
Từ các khái niệm trên có thể rút ra một số kết luận về KCN như sau:
- KCN là một khu vực lãnh thổ có ranh giới xác định, được phân cách
bằng đường bao hữu hình hoặc vô hình.
- Các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp (hàng tiêu dùng, hàng công
nghiệp chế biến, hàng tư liệu sản xuất) là hạt nhân của KCN. Vệ tinh của các
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp là các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và
doanh nghiệp dịch vụ.
- Doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ cho sản xuất công nghiệp
sử dụng chung cơ sở hạ tầng theo một cơ chế tổ chức quản lý thống nhất của
Ban quản lý KCN.
- Nguồn nhân lực chủ yếu cho các doanh nghiệp là người lao động trong
nước và tại chỗ.
- KCN được sự quản lý trực tiếp của Chính phủ (từ quyết định thành lập,
quy hoạch tổng thể, khung điều lệ mẫu, kiểm tra, kiểm soát…)
1.1.2. Đặc điểm và phân loại KCN
1.1.2.1. Đặc điểm của các KCN
Đến nay, các KCN đã được thành lập và phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các
nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Mặc dù các KCN ở các quốc gia có
sự khác nhau về quy mô, địa điểm, phương thức xây dựng cơ sở hạ tầng, nhưng
nhìn chung các KCN đó đều có những đặc điểm chủ yếu sau:
Tính chất hoạt động: KCN chính là nơi tập trung các doanh nghiệp thực
hiện hoạt động sản xuất kinh doanh mà không có dân cư. KCN được thành lập
để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào sản xuất các sản phẩm công
nghiệp hoặc kinh doanh các dịch vụ gắn liền với sản xuất công nghiệp. Trong
KCN, các nhà đầu tư, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài được đầu tư vào các lĩnh vực:
Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng
Sinh viên thực hiện: Bùi Thị Lành Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
8
Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu và tiêu
dùng tại thị trường trong nước; phát triển và kinh doanh bằng sáng chế, bí quyết
kỹ thuật, quy trình công nghệ.
Nghiên cứu – triển khai khoa học – công nghệ để nâng cao chất lượng sản
phẩm và tạo ra sản phẩm mới.
Dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp.1
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Trước khi các doanh nghiệp vào KCN để thực
hiện hoạt động sản xuất kinh doanh thì KCN đã được xây dựng hoàn chỉnh hệ
thống cơ sở hạ tầng như đường xá, hệ thống điện - nước, mạng lưới thông tin
liên lạc… Ở Việt Nam, Chính phủ khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để
doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, các nhà đầu tư nước
ngoài dưới hình thức liên doanh với doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, xây dựng và
kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng KCN. Tùy theo quy mô và tính chất,
một KCN có thể có một hoặc nhiều công ty phát triển hạ tầng cùng thực hiện.
Tổ chức quản lý: Mỗi một KCN đều có một Ban quản lý KCN (BQL
KCN) cấp tỉnh để thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt
động sản xuất – kinh doanh trong KCN. Ngoài BQL KCN là cơ quan quản lý
trực tiếp, còn có các cơ quan khác tham gia vào quản lý hoạt động của các KCN
như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng, Bộ Thương mại,
UBND cấp tỉnh…
1.1.2.2. Phân loại KCN
Tuy có nhiều điểm chung, nhưng các KCN còn có những nét đặc thù riêng
thể hiện tính đa dạng, phong phú. Đứng ở các góc độ nghiên cứu khác nhau, ta
có thể chia KCN thành các nhóm khác nhau.
Căn cứ vào quy mô của KCN thì có thể phân các KCN thành 2 loại:
- KCN tập trung: có quy mô từ 50 ha trở lên.
1
Điều 6 - Nghị định 36/CP ngày 24/7/1997 ban hành về quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ
cao
Sinh viên thực hiện: Bùi Thị Lành Lớp: Kinh doanh Quốc tế 46A
9