Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay mua nhà trả góp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội -
MIỄN PHÍ
Số trang
67
Kích thước
658.0 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1635

Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay mua nhà trả góp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội -

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

TIỂU LUẬN:

Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay

mua nhà trả góp tại Ngân hàng thương

mại cổ phần Nhà Hà Nội - HABUBANK

LỜI MỞ ĐẦU

Có một ngôi nhà riêng mua bằng vốn tích góp hiện là một giấc mơ khá xa với các

gia đình công nhân viên chức, đặc biệt là các cặp vợ chồng trẻ. Nhu cầu ngày một

nhiều, tình trạng đầu cơ khiến cho thị trường nhiều lúc bị lũng đoạn, giá bị đẩy lên cao

chóng mặt.

Tuy nhiên, theo quy luật thị trường, có cầu ắt có cung. Nắm bắt nhu cầu người

dân, các ngân hàng bắt đầu khai thác dịch vụ cho vay mua nhà trả góp. Từ năm 2005,

một số ngân hàng đã đưa ra thị trường sản phẩm này trong đó có Ngân hàng thương

mại cổ phần Nhà Hà Nội – HABUBANK.

Cho vay mua nhà trả góp không chỉ là nghiệp vụ làm đa dạng hoá hoạt động,

mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng mà nó còn góp phần nâng cao chất lượng

cuộc sống cho người dân, giúp đất nước ngày càng phồn thịnh hơn.

Chuyên đề : “Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay mua nhà trả góp tại Ngân

hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội - HABUBANK” sẽ cung cấp một số thông tin

xung quanh vấn đề cho vay mua nhà trả góp và đề xuất các giải pháp phát triển hoạt

động này tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội – HABUBANK.

Bài viết này gồm 3 chương:

Chương I: Tổng quan về cho vay mua nhà trả góp của NHTM

Chương II: Thực trạng cho vay mua nhà trả góp tại Ngân hàng TMCP Nhà

Hà Nội (HABUBANK)

Chương III: Giải pháp mở rộng cho vay mua nhà trả góp tại HABUBANK

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHO VAY MUA NHÀ

TRẢ GÓP CỦA NHTM

1.1 Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại (NHTM)

1.1.1. Khái niệm NHTM

Để đưa ra một khái niệm về NHTM, người ta thường phải dựa vào tính chất mục

đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục

đích và đối tượng hoạt động.

Luật ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: “Ngân hàng được coi là những xí

nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký

thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết

khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Hay như Luật ngân hàng của Ấn Độ 1950, được

bổ sung 1959 đã nêu: “Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay

tài trợ, đầu tư”. Những định nghĩa đại loại như vậy là căn cứ vào tính chất và mục đích

hoạt động.

Một loạt định nghĩa khác lại căn cứ vào sự kết hợp với đối tượng hoạt động. Ví

dụ như Luật ngân hàng của Đan Mạch năm 1930 định nghĩa: “Những nhà băng thiết

yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại

và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ

chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm…”

Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau nhưng phân tích, khai thác nội dung

của các định nghĩa đó , người ta dễ dàng nhận thấy các NHTM đều có chung một tính

chất, đó là việc nhận tiền ký thác, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào

các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính ngân

hàng.

Ở Việt Nam, trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự quản lý của

Nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng

xã hội chủ nghĩa, mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, đựợc bảo hộ quyền

sở hữu và thu nhập hợp pháp. Các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp, đan kết với nhau

hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các doanh nghiệp, không phân biệt quan

hệ sở hữu đểu tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước

pháp luật.

Theo hướng đó, nền kinh tế hàng hóa phát triển tất yếu sẽ tạo ra những tiền đề

cần thiết và đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tín dụng

khác. Vì vậy, để tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt động của các ngân hàng và các tổ

chức tín dụng khác, tạo thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế đồng thời bảo vệ lợi ích

hợp pháp của các tổ chức và cá nhân. Theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng của Việt

Nam có nêu: “ Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của

Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch

vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng

các dịch vụ thanh toán”.

Từ định nghĩa chung đó, căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động, luật còn chỉ

rõ các loại hình ngân hàng gồm: ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân

hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng

khác.

Ngày nay, trong thế giới hiện đại, hoạt động của các tổ chức tài chính là môi giới

trên thị trường tài chính càng phát triển về số lượng và quy mô hoạt động, đa dạng và

phong phú, hoạt động đan xen lẫn nhau. Người ta phân biệt ngân hàng thương mại với

các tổ chức trung gian tài chính khác là ở chỗ NHTM là ngân hàng kinh doanh tiền

gửi, chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn. Chính từ hoạt động đó đã tạo cơ hội cho

NHTM có thể làm tăng bội số tiền gửi của khách hàng trong hệ thống ngân hàng của

mình. Đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt NHTM với các ngân hàng và các tổ chức tín

dụng khác.

1.1.2. Hoạt động cho vay của NHTM

1.1.2.1. Khái niệm

Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải

hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.

1.1.2.2. Các hình thức cho vay của NHTM

+ Cho vay thấu chi

Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi

trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong

khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.

Để được thấu chi, khách hàng phải làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và

thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Trong quá trình hoạt

động, khách hàng có thể ký séc, lập ủy nhiệm chi, mua thẻ séc…vượt quá số dư tiền

gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản

tiền gửi ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà ngân hàng phải trả:

Lãi suất thấu chi x Thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi

Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng

hình thức này.

Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và

quy mô . Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán ngân quỹ song

không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách

hàng trong quá trình thanh toán: Chủ động, nhanh, kịp thời.

Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là

không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng,

vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng…Hình thức

này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều

đặn và kỳ thu nhập ngắn.

+ Cho vay trực tiếp từng lần

Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng

không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu

chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ,

hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức vốn từ ngân hàng chỉ tham gia

vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.

Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn

vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô

cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi

món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau.

Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá

trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả. Nếu

thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ

quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi.

Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng

món vay tách biệt.

+ Cho vay theo hạn mức

Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn

mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa

tại thời điểm tính.

Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu

vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.

Trong khi khách hàng có thể thực hiện vay – trả nhiều lần, song dư nợ không

được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng quy định hạn mức

cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên, đến cuối kỳ, khách hàng

phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không được vượt quá hạn mức.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!