Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

định hướng về phát triển cơ cấu đầu tư theo hướng ngày càng hợp lý hơn
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với bất kỳ một nền kinh tế nào, để tạo ra tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững
đếu phải có sự đầu tư đúng hướng; trong đó, cơ cấu đầu tư phải phù hợp và phục vụ cho
chiến lược về cơ cấu kinh tế. Do đó, cần phải có một cơ cấu đầu tư hợp lý, cơ cấu đó phải
khai thác được lợi thế so sánh, đáp ứng được những yêu cầu thị trường chung cho cả
nước, phát huy nội lực và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.
Trong thời gian qua, tại các kỳ họp quốc hội, Đảng và Nhà nước ta cũng đã và đang đề
ra nhiệm vụ: Để đảm bảo thắng lợi nhiệm vụ phát triển của đất nước cần có sự chuyển
dịch cơ cấu đầu tư một cách hợp lý đó là: Chuyển dịch cơ cấu đầu tư gắn với mục tiêu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá- hiện
đại hoá đất nước; trong khi nhấn mạnh vai trò quan trọng bậc nhất của tích luỹ nội bộ
kinh tế, chúng ta phải coi vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng, kết
hợp hai nguồn lực này trong một thể thống nhất để đầu tư phát triển; đó còn là sự chuyển
đổi cơ cấu đầu tư cần đảm bảo sự phát triển hợp lý giữa các vùng, bên cạnh việc hình
thành nên những vùng kinh tế trọng điểm cần có sự quan tâm đến những vùng sâu, vùng
xa, vùng còn khó khăn.
Trên thực tế, cơ cấu đầu tư của nước ta trong những năm gần đây đã có sự dịch
chuyển khả quan, đáp ứng được những yêu cầu và mục tiêu trên. Tuy nhiên bên cạnh đó,
cơ cấu đầu tư hiện nay cũng còn thể hiện nhiều mặt hạn chế, bất cập. Do đó, việc nghiên
cứu cơ cấu đầu tư, sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư, và từ những thực trạng về cơ cấu đầu tư
của Việt Nam thời gian qua từ đó có thể đưa ra những giải pháp để cơ cấu đầu tư dịch
chuyển theo hướng hợp lý là đúng đắn và cần thiết.
Nhóm chúng em xin được chân thành cảm ơn thầy giáo Từ Quang Phương đã giúp
chúng em hoàn thành đề án này
1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ
1.1 Cơ cấu đầu tư
1.1.1 Khái niệm cơ cấu đầu tư
Cơ cấu đầu tư là cơ cấu các yếu tố cấu thành đầu tư như cơ cấu vốn, nguồn vốn cơ
cấu huy động và sử dụng vốn…quan hệ hữu cơ, tương tác qua lại giữa các bộ phận trong
không gian va thời gian, vận động theo hướng hình thành một cơ cấu đầu tư hợp lý và tạo
ra những tiềm lực lớn hơn về mọi mặt kinh tế - xã hội.
1.1.2 Phân loại cơ cấu đầu tư
1.1.2.1 Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn
Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn hay cơ cấu nguồn vốn đầu tư thể hiện tỉ lệ của từng
loại nguồn vốn trong tổng số vốn đầu tư xã hội hay nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp
va dự án. Cùng với sự gia tăng của vốn đầu tư xã hội, cơ cấu nguồn vốn ngày càng đa
dạng hơn, phù hợp với cơ chế xóa bỏ bao cấp trong đầu tư, với chính sách phát triển kinh
tế nhiều thành phần và chính sách huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển. Trên
phương diện vĩ mô, có một số loại nguồn vốn chủ yếu sau đây :
Vốn ngân sách nhà nước: Là nguồn vốn được trích lập từ ngân sách của Nhà nước
chi cho các hoạt động đầu tư. Đây là một nguồn vốn quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia và thường được đầu tư cho các dự án kết cấu hạ
tầng kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào
lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ quy hoạch xây dựng đô thị và
nông thôn.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước : Nguồn vốn này có tác dụng tích cực
trong việc giảm đáng kể bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn
vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là
người vay vốn nay phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát
vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vón trực
tiếp.
Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý
và điều tiết vĩ mô.Thông qua nguồn vốn tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện việc khuyến
khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng lĩnh vực theo dịnh hứong chiến lược của
mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô,nguồn vốn này không chỉ thực hiện
mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.Việc
phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế
khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo. Và trên hết, nguồn vốn
tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước : Nguồn vốn này chủ yếu từ khấu tài
sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước. Theo Bộ Kế hoạch va Đầu tư,
thông thường nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư chiếm 14-15% tổng
vốn đầu tư toàn xã hội, chủ yếu là đầu tư theo chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết
bị hiện đại hóa dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp.
2
Vốn đầu tư tư nhân và dân cư : Nguồn vốn tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân
cư, phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo ước tính của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư ,tiết kiệm trong dân cư và các doanh nghiệp dân doanh chiếm bình
quân khoảng 15% GDP, trong đó phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư gián tiếp vào
khoảng 3,7% GDP, chiếm khoảng 25% tổng tiết kiệm của dân cư; phần tiết kiệm của dân
cư tham gia đầu tư trực tiếp khoảng 5% GDP và bằng 33% số tiết kiệm được. Đầu tư của
các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình có vai trò quan trong đặc biệt trong việc phát
triển nông nghiệp va kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, vận tải trên các địa phương. Ở mức độ nhất
định,các hộ gia đình cũng sẽ là một trong số những nguồn tập trung và phân phối vốn
quan trọng trong nền kinh tế.
Nguồn vốn trong dân cư còn phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia dình.
Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: Trình độ phát triển của một nước (ở
những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp); tập
quán tiêu dùng của dân cư; chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách phát
triển thuế thu nhập và các khoản đóng góp của xã hội.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư
và phát triển. Nó có đặc điểm là tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước
nhận vốn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào
nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những
ngành nghề đòi hỏi cao về kĩ thuật hay cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng
cực kì to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng
trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp vào việc bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai và
cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cho
ngân sách nhà nước cũng hết sức đáng kể. Đặc biệt nguồn vốn nước ngoài đã góp phần
tích cực vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ cơ sở hạ tầng giao thông vận
tải, bưu chính viễn thông…hình thành lên các khu công nghiệp, khu chế xuất khu công
nghệ cao, hiện đại hóa các khu vực phát triển, hình thành các khu dân cư mới tạo việc
làm cho hàng vạn lao động tại các địa phương.
1.1.2.2 Cơ cấu vốn đầu tư
Cơ cấu vốn đầu tư thể hiên quan hệ tỉ lệ của từng loại vốn với tổng vốn đầu tư xã hội,
vốn đầu tư của một doanh nghiệp hay của một dư án. Cơ cấu vốn đầu tư cần được xem
xét như: cơ cấu kỹ thuật của vốn (vốn xây lắp và máy móc kĩ thuật trong tổng vốn đầu
tư); cơ cấu vốn đầu tư cho hoạt động XDCB, công tác nghiên cứu triể khai khoa học và
công nghệ vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực, tái tạo tài sản lưu động và những chi
phí khác (chi phí quảng cáo tiếp thị…); cơ cấu vốn đầu tư theo quá trình lập và thực hiện
dự án như chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí thực hiên đầu tư…
1.1.2.3 Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành
Đây là loại cơ cấu đầu tư quan trọng nhất vì nó trực tiếp tác động đến sự chuyển dịch
cơ cấu theo ngành. Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành quy định tỉ lệ phân bổ vốn đầu tư
xã hội vào các ngành kinh tế, thực hiện đầu tư cho từng ngành kinh tế quốc dân cũng như
trong từng tiểu ngành thể hiện việc thực hiện chính sách ưu tiên phát triển, chính sách đầu
tư đối với từng ngành nhất định.
Có nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu cơ cấu đầu tư theo ngành nhưng ta có thể chia theo
các cách sau:
3
* Chia theo hai nhóm ngành quan trọng: Ngành sản xuất sản phẩm xã hội và nhóm
ngành kết cấu hạ tầng. Mục đích là nghiên cứu tính hợp lí của đầu tư cho từng nhóm
ngành. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phải đi trước một bước để tạo cơ sở phát triển
các ngành sản xuất sản phẩm xã hội, nhưng cần có tỉ lệ hợp lý vì nếu quá tập trung đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng, không chú ý dến sản xuất kinh doanh thì sẽ không có tăng
trưởng.
* Chia cơ cấu đầu tư theo 3 nhóm ngành: Ngành công nghiệp, nông nghiêp, dịch vụ.
Mục đích là đánh giá, phân tích tình hình đầu tư, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng,
trong đó ưu tiên phát triển công nghiệp và dịch vụ, chú ý đầu tư phát triển nông nghiệp
hợp lí ở nước ta hiện nay, nông dân chiếm tỉ trọng phần lớn và nông thôn có vị trí rất
quan trọng trong quá trình phát triển.
Ngành nông nghiệp: Đây là ngành sản xuất vật chất quan trọng nhằm đáp ứng nhu
cầu thiết yếu của nhân dân, là ngành chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc dân,
cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu,đồng
thời cũng là ngành chiếm tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động xã hội và dân cư ở nước
ta. Nông nghiệp phát triển sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do năng sất lao động trong
nông nghiệp thấp hơn trong các ngành khác, nên nông nghiệp không phát triển nó sẽ trở
thành gánh nặng cho nền kinh tế, sẽ kéo toàn bộ mức tăng trưởng của nền kinh tế. Mặt
khác nông nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện thỏa mãn được nhu cầu tiêu dùng cho toàn
xã hội, đảm bảo sự ổn định kinh tế xã hội để phát triển.Nông nghiệp và nông thôn phát
triển sẽ mở rộng thị trường trong nước, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến,
công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, tích lũy vốn ban đầu và cung cấp lao động cho các
ngành sản xuất khác của nền kinh tế. Nhưng đây là ngành sản xuất phụ thuộc vào nhiều
yếu tố tự nhiên, tính bấp bênh cao, thu hồi vốn lâu, đòi hỏi vốn lớn cho các công trình
thủy lợi, máy móc trang thiết bị, phòng trừ sâu bệnh… Do vậy chính phủ phải có các
chính sách phát triển nông nghiệp, điều chỉnh cơ cấu ngành một cách thích hợp, sao cho
sự phát triển của nông nghiệp không ảnh hưởng đến đầu tư phát triển công nghiệp và dịch
vụ mà còn tạo điều kiện tốt hơn cho sự phát triển của hai ngành này cũng như toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.
Ngành công nghiệp: Để đưa nước ta thoát khỏi một nước nghèo và rút ngắn khoảng
cách tụt hậu so với các nước khác trong khu vực cũng như trên thế giới, chúng ta không
thể chỉ phát triển nông nghiệp mà phải phát triển cả công nghiệp và dịch vụ. Công nghiệp
là ngành quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Ngành này
thu hút một lượng lao động lớn và năng suất lao đông trong ngành này rất cao và tạo ra
giá trị sản lượng công nghiệp tăng nhanh hơn trong các ngành khác, tạo ra lợi nhuận lớn.
Ngành công nghiệp phát triển sẽ cung cấp nhiều máy móc trang thiết bị cho nông nghiệp
phát triển, nhiều sản phẩm hàng hóa đa dạng cho dịch vụ phát triển. Chúng ta xuất phát từ
một nước nghèo, có nền công nghiệp lạc hậu so với các nước khác, do vậy phải tranh thủ
tiến trình mở cửa hội nhập quốc tế để thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, học hỏi kinh
nghiệm, công nghệ từ họ để phát triển công nghiệp đất nước. Xây dựng công nghiệp nặng
làm nền tảng cơ sở, tận dụng sự chuyển giao công nghệ, thiết lập những ngành mũi nhọn
có lợi thế so sánh nhất. Ngành công nghiệp chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm
quốc dân, do vậy nhà nuớc phải đặc biệt quan tâm, và có những chính sách mở cửa thu
hút vốn đầu tư nước ngoài, cung cấp vốn và phân bổ vốn một cách họp lí cho sự phát
triển công nghiệp.
4