Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Điều tra, đánh giá các mô hình rừng trồng cung cấp gỗ lớn làm cơ sở lựa chọn loài cây trồng rừng gỗ lớn, mọc nhanh ở các vùng sinh thái Tây Nguyên và Duy
PREMIUM
Số trang
87
Kích thước
824.1 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1206

Điều tra, đánh giá các mô hình rừng trồng cung cấp gỗ lớn làm cơ sở lựa chọn loài cây trồng rừng gỗ lớn, mọc nhanh ở các vùng sinh thái Tây Nguyên và Duy

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

====  ====

ĐẶNG VĂN MAN

ĐIỀU TRA, ĐÁNH GIÁ CÁC MÔ HÌNH RỪNG TRỒNG CUNG CẤP

GỖ LỚN LÀM CƠ SỞ LỰA CHỌN LOÀI CÂY TRỒNG RỪNG GỖ

LỚN,

MỌC NHANH Ở CÁC VÙNG SINH THÁI TÂY NGUYÊN VÀ

DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

THÁI NGUYÊN, 2010

THÁI NGUYÊN – 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

====  ====

ĐẶNG VĂN MAN

ĐIỀU TRA, ĐÁNH GIÁ CÁC MÔ HÌNH RỪNG TRỒNG

CUNG CẤP GỖ LỚN LÀM CƠ SỞ LỰA CHỌN LOÀI CÂY

TRỒNG RỪNG GỖ LỚN,

MỌC NHANH Ở CÁC VÙNG SINH THÁI TÂY NGUYÊN

DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG

CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC

MÃ SỐ: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỠNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN VĂN

CON

THÁI NGUYÊN – 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1

ĐẶT VẤN ĐỀ

« Chọn cây gì trên lập địa nào để đáp ứng được tốt nhất mục tiêu đặt

ra? » là câu hỏi đầu tiên mà các nhà đầu tư trồng rừng phải tìm câu trả lời. Việt

Nam là một nước nhiệt đới, các loài cây sẵn có trong rừng tự nhiên là rất

phong phú, nhưng trong danh sách các loài cây trồng rừng lại rất ít các loài cây

bản địa và nếu có thì qui mô ít hơn nhiều so với các loài nhập nội như Bạch

đàn, Keo hoặc Thông. Điều này có nhiều nguyên nhân khác nhau thuộc về

khoa học tự nhiên, kỹ thuật công nghệ và kinh tế - xã hội. Về mặt khoa học tự

nhiên thì hiểu biết của chúng ta về nhu cầu sinh thái và phản ứng của các loài

cây bản địa còn quá ít ỏi. Rất nhiều loài cây tồn tại trong rừng tự nhiên không

thể đem trồng ở đất trống vì quan hệ khí hậu ở đó mâu thuẫn với yêu cầu sinh

thái của chúng. Thường thì các loài cây lá rộng bản địa có giá trị kinh tế lại là

những loài không thích hợp hoặc rất khó cho việc trồng rừng tập trung ở đất

trống đồi núi trọc. Chỉ một số loài mà vốn bản tính tự nhiên đã ưa sáng, chịu

được hạn như Mỡ (Manglieta glauca), Bồ đề (Styrax tonkinensis), Xoan

(Melia azedarach), hay những loài vốn đã sống trong các điều kiện lập địa cực

đoan hoặc các vùng khí hậu bất lợi như vùng mưa mùa đông hay các vùng có

mùa khô hạn kéo dài, đó là các loài như: Thông (Pinus spp), Bạch đàn

(Eucalyptus spp), Phi lao (Casuarina spp), Tếch (Teaktona grandis) và các

loài cây ở rừng khộp mới có khả năng trồng tập trung trên đất trống. Về mặt

kinh tế-xã hội thì các loài cây lá rộng bản địa thường có chu kỳ sinh trưởng rất

lâu mới cho sản phẩm, vốn đầu tư bị chôn lâu hơn nhiều so với các cây nhập

nội sinh trưởng nhanh hơn, hiệu quả kinh tế mang lại nhanh hơn. Sự gia tăng

dân số kéo theo các nhu cầu lâm sản ngày càng cao trong khi khả năng cung

cấp của rừng tự nhiên ngày một hạn chế. Điều này dẫn đến việc các chính phủ

và các ngành công nghiệp phải đẩy mạnh trồng rừng, đặc biệt là rừng có khả

năng mọc nhanh và chu kỳ canh tác ngắn để đáp ứng đòi hỏi của sản xuất. Hơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2

một nửa thế kỷ qua, trồng rừng cung cấp gỗ cho các ngành công nghiệp đã trở

thành thương vụ lớn và việc mở rộng rừng trồng cây mọc nhanh phát triển rất

nhanh ở một số nước. Người ta đã ước lượng rằng, hiện tại có gần 10 triệu ha

rừng trồng cây mọc nhanh trên phạm vi toàn cầu, mỗi năm diện tích này gia

tăng khoảng 0,8 đến 1,2 triệu ha và việc mở rộng rừng trồng cây mọc nhanh sẽ

tiếp tục trong tương lai gần.

Rừng trồng cây mọc nhanh chu kỳ ngắn chủ yếu là nhằm mục đích sản

xuất gỗ nguyên liệu giấy, tuy nhiên nhu cầu về gỗ lớn đang gia tăng cũng đã

thúc đẩy các nhà lâm nghiệp quan tâm nghiên cứu trồng rừng gỗ lớn mọc nhanh.

Gần đây, nhà nước đã quan tâm đầu tư cho các đề tài nghiên cứu các

giải pháp kỹ thuật và kinh tế xã hội để phát triển trồng rừng gỗ lớn mọc nhanh.

Một trong số các đề tài đã và đang được thực hiện là đề tài cấp nhà nước:

“Nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ và kinh tế-xã hội trồng rừng gỗ

lớn, mọc nhanh trên đất trống còn tính chất đất rừng và đất rừng nghèo kiệt”

do TS. Trần Văn Con, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam chủ trì. Trong đề

tài nói trên, nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học Lâm nghiệp quan niệm:

“Rừng trồng “gỗ lớn mọc nhanh” là các rừng trồng “thương mại” với cường độ

kinh doanh cao, được thiết lập tương đối tập trung, chủ yếu là thuần loài (cây

bản địa hoặc nhập nội) mọc nhanh (có năng suất trên 15 m3

/ha/năm) để sản

xuất gỗ lớn (có đường kính trên 25 cm) với luân kỳ kinh doanh tối đa là 30

năm”.

Trong thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp cao học, tôi được nhóm

nghiên cứu đề tài cho phép tham gia cộng tác và thực hiện luận văn của mình

với tiêu đề: “Điều tra, đánh giá các mô hình rừng trồng cung cấp gỗ lớn làm

cơ sở lựa chọn loài cây trồng rừng gỗ lớn, mọc nhanh ở các vùng sinh thái

Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung”. Đây là một trong những nội dung

nghiên cứu của đề tài nói trên với mong muốn thông qua việc đánh giá các mô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3

hình rừng trồng cung cấp gỗ lớn đã có ở 2 vùng sinh thái lâm nghiệp (Tây

Nguyên và Duyên hải miền Trung) góp phần đưa ra các cơ sở lý luận và thực

tiễn lựa chọn các loài cây có khả năng trồng rừng cung cấp gỗ lớn với luân kỳ

sản xuất tương đối ngắn (dưới 30 năm) trên các lập địa còn tính chất đất rừng

và rừng nghèo kiệt.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4

CHƢƠNG I

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Ngoài nƣớc

Thực tiễn trồng rừng đã có từ thời trung cổ và rất nhiều loài cây kinh tế

quan trọng đã được trồng ngoài vùng phân bố tự nhiên của chúng từ hàng ngàn

năm trước. Trước năm 1900, khi mật độ dân số thấp và diện tích rừng tự nhiên

lớn không đặt ra nhu cầu trồng rừng ở quy mô lớn cho nguyên liệu công

nghiệp. Tuy nhiên, một số quốc gia đã bắt đầu quan tâm đến sự thiếu hụt rừng

tự nhiên của họ và trong nửa đầu của thế kỷ 20 việc trồng rừng đã được bắt

đầu ở Tây Âu, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Úc, Niu Zilân, Nam Phi và một số ít

các nước đang phát triển như Ấn Độ, Chilê, Indonesia và Brazin, sau đó vào

những năm 1950 là Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đã thực hiện các

chương trình tái trồng rừng lớn.

Những năm 1960 chứng kiến các chương trình trồng rừng lớn ở nhiều

nước nhiệt đới và á nhiệt đới và từ 1965 đến 1980 diện tích rừng rồng nhiệt đới

đã tăng rất mạnh. Trong thời kỳ này, tổ chức Nông lương thế giới (FAO) đóng

vai trò quan trọng trong việc phổ cập các thông tin kỹ thuật và khuyến khích

trồng rừng. Trong nhiều trường hợp, rừng trồng đã được thiết lập bằng vốn tài

trợ nước ngoài hoặc vốn vay ưu đãi. Phần lớn những người trồng rừng thường

được hưởng lợi từ hỗ trợ trực tiếp và hầu hết nó được quản lý bởi các cơ quan

nhà nước. Thiếu thông tin thị trường và các mối liên kết giữa rừng trồng và các

công nghiệp tiêu thụ nguyên liệu dẫn đến rất nhiều hoạt động trồng rừng đi đến

kết thúc khi các nguồn hỗ trợ không còn. Tuy nhiên, diện tích rừng trồng vẫn

tiếp tục mở rộng với tốc độ nhanh. Theo đánh giá lâm nghiệp toàn cầu năm

2002 do FAO [28] thực hiện thì diện tích rừng trồng trên phạm vi toàn cầu

tăng từ 17,8 triệu ha năm 1980 lên 43,6 triệu ha năm 1990 và 187 triệu ha năm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5

2000. Một phần ba rừng trồng hiện nay nằm ở các nước nhiệt đới và hai phần

ba ở vùng ôn đới và hàn đới. 5 nước có diện tích rừng trồng trên 10 triệu ha,

chiếm 65% diện tích rừng trồng thế giới, đó là các nước: Trung Quốc, Hợp

chủng quốc Hoa Kỳ, Liên bang Nga, Ấn Độ và Nhật Bản. Tuy nhiên rất ít rừng

trồng của họ được thừa nhận là cây mọc nhanh. Đánh giá của FAO ước tính tỷ

lệ trồng rừng mới hàng năm trên thế giới vào khoảng 4,5 triệu ha, trong đó

châu Á chiếm 79%, và Nam Mỹ chiếm 11%. Có sự tăng trưởng chắc của diện

tích rừng trồng công nghiệp trong giai đoạn 1991-2000, các rừng trồng công

nghiệp này chủ yếu là cây gỗ mọc nhanh, như là kết quả của việc gia tăng sự

tham gia của khu vực tư nhân. Các công ty đến từ Bắc Mỹ, châu Âu, Nam Mỹ,

Nam Phi, Niu Zilân và Úc chủ yếu là các công ty tư nhân đầu tư trồng rừng.

Trên tất cả, đánh giá tài nguyên rừng toàn cầu của FAO là nguồn thống

kê đáng tin cậy nhất về tài nguyên rừng ở quy mô toàn cầu, cả rừng tự nhiên và

rừng trồng. Nó đã thừa nhận ba phạm trù lớn của rừng trồng: Rừng trồng công

nghiệp nhằm sản xuất gỗ nguyên liệu cho các công nghiệp chế biến gỗ hoặc

sản xuất than công nghiệp; Rừng trồng không công nghiệp nhằm sản xuất gỗ

củi cho tiêu dùng địa phương hoặc để bảo vệ đất, nguồn nước; và Rừng trồng

mà mục đích và sản phẩm cuối cùng của nó chưa xác định. Rừng trồng cây

mọc nhanh là rừng trồng công nghiệp. Tuy nhiên, số liệu thống kê của FAO

không phân biệt rừng cây mọc nhanh với các loại rừng công nghiệp khác.

Rừng trồng cây mọc nhanh tương đối hạn chế về quy mô và bao gồm số tương

đối ít các nước và các ngành công nghiệp nhưng nó có một tỷ lệ đóng góp khá

chắc chắn ở khía cạnh kinh tế. Có thể điều này giúp giải thích tại sao không có

tương ứng của cây mọc nhanh trong đánh giá tài nguyên rừng toàn cầu của

FAO[28]. Phần lớn các thông tin về địa điểm, quy mô, chủ sở hữu, đặc trưng

vật lý và tài chính của rừng trồng cây mọc nhanh chứa đựng trong các nghiên

cứu thị trường, phân tích tài nguyên và nghiên cứu tiền khả thi được các công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6

ty tư vấn tư nhân thực hiện. Trong nhiều trường hợp, các thông tin này là đáng

tin cậy. Tất nhiên, chúng tôi cố gắng thiết lập một bức tranh toàn cảnh ở mức

có thể về hiện trạng rừng cây mọc nhanh hiện nay và thực hiện việc này trên

cơ sở tham vấn các nghiên cứu đã nói ở trên. Kết quả trình bày ở bảng 1 đưa ra

các đặc trưng chính yếu của các loại rừng trồng cây mọc nhanh về quy mô và

phân bố của chúng. Các nước chủ yếu là Brazin, Indonesia, Trung Quốc, Ấn

Độ, Nam Phi, Thái Lan, Việt Nam, Malaixia, Venezuela như là các nước quan

tâm đến các loài nhiệt đới và á nhiệt đới và Trung Quốc, Chilê, Thổ Nhĩ Kỳ,

Tây Ban Nha, Achentina, Uruguay, Nam Phi và Úc đối với các loài ôn đới.

Trong khi tập hợp số liệu, chúng tôi nhận thấy rằng có hai vùng màu xám rất

rõ. Quan tâm đầu tiên là 11,25 triệu ha rừng trồng Bạch đàn nhiệt đới và á

nhiệt đới ngoài Brazin, Trung Quốc và Nam Phi. Có bao nhiêu trong đó là cây

mọc nhanh? Chỉ riêng Ấn Độ đã có 8 triệu ha rừng trồng Bạch đàn, nhưng một

tỷ lệ rất lớn trong đó không thể coi là cây mọc nhanh vì đơn giản là năng suất

của nó rất thấp. Vùng thứ hai là rừng trồng Bạch dương của Trung Quốc.

Trồng rừng Bạch dương không tập trung là thực tế bình thường ở Trung Quốc

và chúng ta không biết có bao nhiêu trong tổng số 3,7 triệu ha rừng Bạch

dương được báo cáo trong kiểm kê rừng quốc gia nước này (1998) là rừng mọc

nhanh, và bao nhiêu được phân biệt không phải rừng trồng tập trung.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!
Điều tra, đánh giá các mô hình rừng trồng cung cấp gỗ lớn làm cơ sở lựa chọn loài cây trồng rừng gỗ lớn, mọc nhanh ở các vùng sinh thái Tây Nguyên và Duy | Siêu Thị PDF