Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đề tài: Nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Đề tài: Nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển ở công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex
Nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển ở công ty cổ
phần bảo hiểm Petrolimex Petrolimex Petrolimex Petrolimex
NỘI DUNG
CHƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP
KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐỜNG BIỂN
I. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP
KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐỜNG BIỂN
1. Trên thế giới:
Bảo hiểm hàng hải đã có lịch sử rất lâu đời. Nó ra đời và phát triển cùng với sự phát
triển của hàng hoá và ngoại thơng. Khoảng thế kỷ V trớc công nguyên, vận chuyển hàng
hoá bằng đờng biển đã ra đời và phát triển ngời ta biết tránh tổn thất toàn bộ một lô hàng
bằng cách chia nhỏ, phân tán chuyên chở trên nhiều thuyền khác nhau. Đây có thể nói là
hình thức sơ khai của bảo hiểm hàng hoá. Đến thế kỷ thứ XII thơng mại và giao lu hàng
hoá bằng đờng biển giữa các nớc phát triển. Nhiều tổn thất lớn xảy ra trên biển vì khối
lợng và giá trị của hàng hoá ngày càng tăng, do thiên tai, tai nạn bất ngờ, cớp biển... gây ra
làm cho giới thơng nhân lo lắng nhằm đối phó với các tổn thất nặng nề có khả năng dẫn tới
phá sản họ đã đi vay vốn để buôn bán kinh doanh. Nếu hành trình gặp phải rủi ro gây ra
tổn thất toàn bộ thì các thơng nhân đợc xoá nợ, nếu hành trình may mắn thành công thì
ngoài vốn vay họ còn phải trả chủ nợ một khoản tiền lãi với lãi suất rất cao. Lãi suất cao và
nặng nề này có thể coi là hình thức ban đầu của phí bảo hiểm.
Năm 1182 ở Lomborde - Bắc Ý, hợp đồng bảo hiểm hàng hoá đã ra đời, trong đó ngời
bán đơn này cam kết với khách hàng sẽ thực hiện nội dung đã ghi trong đơn. Từ đó hợp
đồng bảo hiểm, ngời bảo hiểm đã ra đời với t cách nh là một nghề riêng độc lập.
Năm 1468 tại Venise nớc Ý đạo luật đầu tiên về bảo hiểm hàng hải đã ra đời. Sự phát
triển của thơng mại hàng hải đã dẫn đến sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của bảo hiểm
hàng hải và hàng loạt các thể lệ, công ớc, hiệp ớc quốc tế liên quan đến thơng mại và hàng
hải nh: Mẫu hợp đồng bảo hiểm của Lloyd's 1776 và Luật bảo hiểm của Anh năm 1906
(MiA - Marine insurance Act 1906), công ớc Brucxen năm 1924, Hague Visby 1986,
Hămbua năm 1978, Incoterms 1953,1980,1990,2000 ... Các điều khoản về bảo hiểm hàng
hải cũng ra đời và ngày càng hoàn thiện .
Nói về bảo hiểm hàng hải không thể không nói tới nớc Anh và Lloyd's. Nớc Anh là
một trong những nớc có sự phát triển hiện đại về thơng mại và hàng hải lớn nhất trên thế
giới. Có thể nói lịch sử phát triển của ngành hàng hải và thơng mại thế giới gắn liền với sự
phát triển của nớc Anh, thế kỷ XVII nớc Anh đã có nền ngoại thơng phát triển với đội tàu
buôn mạnh nhất thế giới và trở thành trung tâm thơng mại và hàng hải của thế giới. Do đó
nớc Anh cũng là nớc sớm có những nguyên tắc, thể lệ hàng hải và bảo hiểm hàng hải. Năm
1779, các hội viên của Lloyd's đã thu thập tất cả các nguyên tắc bảo hiểm hàng hải và quy
thành một hợp đồng chung gọi là hợp đồng Lloyd's. Hợp đồng này đã đợc Quốc hội Anh
thông qua và đợc sử dụng ở nhiều nớc cho đến 1982.Từ ngày 1/1/1982, đơn bảo hiểm hàng
hải mẫu mới đã đợc Hiệp hội bảo hiểm London thông qua và đợc sử dụng ở hầu hết các
nớc trên thế giới hiện nay.
Không chỉ riêng bảo hiểm hàng hải, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế
thế giới, các loại hình bảo hiểm cũng phát triển hết sức mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế và mọi mặt của đời sống xã hội, văn hoá và giao lu quốc tế.
2. Ở Việt Nam:
Thời kỳ đầu, nhà nớc giao cho một công ty chuyên môn trực thuộc Bộ Tài chính kinh
doanh bảo hiểm đó là công ty Bảo hiểm Việt Nam nay là Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam
(gọi tắt là Bảo Việt). Công ty Bảo hiểm Việt Nam đợc thành lập ngày 17/12/1964 theo
Quyết định số 179/CP và chính thức đi vào hoạt động ngày 15/1/1965.
Trớc năm 1964 Bảo Việt chỉ làm đại lý bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu cho công ty
Bảo hiểm nhân dân Trung Quốc trong trờng hợp mua theo giá FOB, CF và bán theo giá
CIF với mục đích là học hỏi kinh nghiệm.
Từ năm 1965 - 1975 Bảo Việt mới triển khai ba nghiệp vụ bảo hiểm đối ngoại trong
đó có bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Từ sau 1970 Bảo Việt có quan hệ tái bảo hiểm
với Liên Xô (cũ), Ba Lan, Triều Tiên. Trớc đó Bảo Việt chỉ có quan hệ tái bảo hiểm với
Trung Quốc.
Từ năm 1975 - 1992 Bảo Việt đã triển khai thêm nhiều nghiệp vụ và mở rộng phạm vi
hoạt động. Từ chỗ chỉ có quan hệ tái bảo hiểm với một số nớc xã hội chủ nghĩa cũ thì trong
thời kỳ này Bảo Việt đã có quan hệ đại lý, giám định, tái bảo hiểm với hơn 40 nớc trên thế
giới. Năm 1965 khi Bảo Việt đi vào hoạt động, Bộ Tài chính đã ban hành quy tắc chung về
Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đờng biển. Gần đây, để phù hợp với sự phát triển
thơng mại và ngành hàng hải của đất nớc, Bộ Tài chính đã ban hành quy tắc chung mới - Quy tắc chung 1990 (QTC-1990) cùng với Luật Hàng hải Việt Nam. Quy tắc chung này là
cơ sở pháp lý chủ yếu điều chỉnh các vấn đề về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đờng biển.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang có những bớc phát triển mạnh mẽ, xuất
phát từ yêu cầu bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định thu hút vốn đầu t nớc ngoài thì
việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh bảo hiểm là một đòi hỏi thiết thực. Để đáp ứng
yêu cầu cấp bách trên, Nghị định 100/CP của chính phủ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm
đã đợc ban hành ngày 18/12/1993 đã tạo điều kiện cho nhiều công ty bảo hiểm ra đời và
phát triển. Hiện nay với sự góp mặt của 10 công ty bảo hiểm gốc trong cả nớc, thị trờng
bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu phát triển với sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty,
nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vẫn là một nghiệp vụ truyền thống mà các
nhà bảo hiểm Việt Nam vẫn duy trì và phát triển với các biện pháp, chiến lợc, sách lợc
giành thắng lợi trong cạnh tranh.
II. SỰ CẦN THIẾT, TÁC DỤNG VÀ VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM HÀNG HOÁ
XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐỜNG BIỂN
1. Khái niệm :
Ta có thể định nghĩa: Bảo hiểm chính là một sự cam kết bồi thờng của ngời bảo hiểm
đối với ngời đợc bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tợng bảo hiểm do những rủi
ro đã thoả thuận gây ra với điều kiện ngời đợc bảo hiểm góp cho ngời bảo hiểm một khoản
tiền gọi là phí bảo hiểm. Trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu thì ngời đợc
bảo hiểm có thể là ngời mua hoặc ngời bán tuỳ theo điều kiện thơng mại và điều kiện cơ sở
giao hàng quy định trong hợp đồng mua bán mà hai bên đã thoả thuận với nhau. Đối tợng
bảo hiểm ở đây chính là hàng hoá đã đợc mua bảo hiểm.
2. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đờng biển :
Ngành bảo hiểm đã ra đời do có sự tồn tại khách quan của các rủi ro mà con ngời
không thể khống chế đợc. Nếu có những rủi ro xảy ra mà không có các khoản bù đắp thiệt
hại kịp thời của các nhà bảo hiểm, đặc biệt là những rủi ro mang tính thảm hoạ gây ra tổn
thất rất lớn thì chủ tàu và chủ hàng gặp rất nhiều khó khăn về tài chính trong việc khắc
phục hậu quả do các rủi ro đó gây ra. Vì vậy, sự ra đời và việc tham gia bảo hiểm cho hàng
hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đờng biển trở thành một nhu cầu rất cần thiết và nó
có những tác dụng sau:
Thứ nhất, giảm bớt rủi ro cho hàng hoá do hạn chế tổn thất nhờ tăng cờng bảo quản
kiểm tra đồng thời kết hợp các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất.
Thứ hai, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu cũng đem lại lợi ích cho nền kinh tế quốc
dân, góp phần tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ cho nhà nớc. Khi các đơn vị kinh doanh xuất
nhập khẩu nhập hàng theo giá FOB, CF, xuất theo giá CIF, CIP sẽ tạo ra khả năng cạnh
tranh của bảo hiểm trong nớc với nớc ngoài. Nhờ có hoạt động bảo hiểm trong nớc các chủ
hàng không phải mua bảo hiểm ở nớc ngoài, nói cách khác là không phải xuất khẩu vô
hình.
Thứ ba, khi các công ty có tổn thất hàng hoá xảy ra sẽ đợc bồi thờng một số tiền nhất
định giúp họ bảo toàn đợc tài chính trong kinh doanh. Số tiền chi bồi thờng của các công ty
hàng năm là rất lớn chiếm khoảng 60%-80% doanh thu phí bảo hiểm.
Thứ t, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên tham gia bảo hiểm đã trở thành nguyên tắc
thể lệ và tập quán trong thơng mại quốc tế. Nên khi hàng hoá xuất nhập khẩu gặp rủi ro
gây ra tổn thất các bên tham gia sẽ đợc công ty bảo hiểm giúp đỡ về mặt pháp lý khi xảy ra
tranh chấp với tàu hoặc các đối tợng có liên quan.
3. Vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đờng biển :
Do đặc điểm của vận tải biển tác động đến sự an toàn cho hàng hoá đợc chuyên chở là
rất lớn. Vì vậy vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đờng biển
càng đợc khẳng định rõ nét :
Một là, hàng hoá xuất nhập khẩu phải vợt qua biên giới của một hay nhiều quốc gia,
ngời xuất khẩu và nhập khẩu lại ở xa nhau và thờng không trực tiếp áp tải đợc hàng hoá
trong quá trình vận chuyển do đó phải tham gia bảo hiểm cho hàng hoá. Ở đây, vai trò của
bảo hiểm là ngời bạn đồng hành với ngời đợc bảo hiểm.
Hai là, vận tải đờng biển thờng gặp nhiều rủi ro tổn thất đối với hàng hoá do thiên tai,
tai nạn bất ngờ gây nên nh: mắc cạn, đâm va, đắm chìm, cháy nổ, mất cắp, cớp biển, bão,
lốc, sóng thần.... vợt quá sự kiểm soát của con ngời. Hàng hoá xuất nhập khẩu chủ yếu lại
đợc vận chuyển bằng đờng biển đặc biệt ở những nớc quần đảo nh Anh, Singapore, Nhật,
Hồng Kông... do đó phải tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
Ba là, theo hợp đồng vận tải ngời chuyên chở chỉ chịu trách nhiệm về tổn thất của
hàng hoá trong một phạm vi và giới hạn nhất định. Trên vận đơn đờng biển, rất nhiểu rủi ro
các hãng tàu loại trừ không chịu trách nhiệm, ngày cả các công ớc quốc tế cũng quy định
mức miễn trách nhiệm rất nhiều cho ngời chuyên chở (Hague, Hague Visby,
Hamburg....).Vì vậy các nhà kinh doanh phải tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
Bốn là, hàng hoá xuất nhập khẩu thờng là những hàng hoá có giá trị cao, những vật t
rất quan trọng với khối lợng rất lớn nên để có thể giảm bớt thiệt hại do các rủi ro có thể xảy
ra, việc tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu trở thành một nhu cầu cần thiết.
Năm là, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đã có lịch sử rất lâu đời do đó việc tham
gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đờng biển đã trở thành một
tập quán, thông lệ quốc tế trong hoạt động ngoại thơng.
Nh vậy, việc tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đờng
biển là rất quan trọng và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong thơng mại quốc tế.
III. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP
KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐỜNG BIỂN
1. Đặc điểm và trách nhiệm của các bên liên quan trong quá trình xuất nhập khẩu
hàng hoá vận chuyển bằng đờng biển :
1.1. Đặc điểm quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng đờng biển.
- Việc xuất nhập khẩu hàng hoá thờng đợc thực hiện thông qua hợp đồng giữa ngời
mua và ngời bán với nội dung về: số lợng, phẩm chất, ký mã hiệu, quy cách đóng gói, giá
cả hàng hoá, trách nhiệm thuê tàu và trả cớc phí, phí bảo hiểm, thủ tục và đồng tiền thanh
toán...
- Trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá có sự chuyển giao quyền sở hữu lô hàng
hoá xuất nhập khẩu từ ngời bán sang ngời mua.
- Hàng hoá xuất nhập khẩu thờng đợc vận chuyển qua biên giới quốc gia, phải chịu sự
kiểm soát của hải quan, kiểm dịch... tuỳ theo quy định, thông lệ của mỗi nớc. Đồng thời để
vận chuyển ra (hoặc vào) qua biên giới phải mua bảo hiểm theo tập quán thơng mại quốc tế. Ngời tham gia bảo hiểm có thể là ngời mua hàng (ngời nhập khẩu) hay ngời bán hàng
(ngời xuất khẩu). Hợp đồng bảo hiểm thể hiện quan hệ giữa ngời bảo hiểm và ngời mua
bảo hiểm đối với hàng hoá đợc bảo hiểm. Nếu ngời bán hàng mua bảo hiểm thì phải
chuyển nhợng lại cho ngời mua hàng, để khi hàng về đến nớc nhập, nếu bị tổn thất có thể
khiếu lại đòi ngời bảo hiểm bồi thờng.
- Hàng hoá xuất nhập khẩu thờng đợc vận chuyển bằng các phơng tiện khác nhau theo
phơng thức vận chuyển đa phơng tiện, trong đó có tàu biển. Ngời vận chuyển hàng hoá
đồng thời cũng là ngời giao hàng cho ngời mua. Vì vậy ngời chuyên chở là bên trung gian
phải có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc hàng hoá đúng quy cách, phẩm chất, số lợng từ khi
nhận của ngời bán đến khi giao cho ngời mua hàng.
Quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá có liên quan đến nhiều bên, trong đó có bốn bên
chủ yếu là: ngời bán (bên xuất khẩu), ngời mua (bên nhập khẩu), ngời vận chuyển và ngời
bảo hiểm. Vì vậy, cần phải phân định rõ ràng trách nhiệm của các bên liên quan và khi tiến
hành xuất nhập khẩu hàng hoá các bên liên quan phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của
mình.
1.2. Trách nhiệm của các bên liên quan.
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá thờng đợc thực hiện thông qua ba loại hợp đồng:
-Hợp đồng mua bán
-Hợp đồng vận chuyển
-Hợp đồng bảo hiểm
Ba hợp đồng này là cơ sở pháp lý để phân định trách nhiệm của các bên liên quan và
trách nhiệm này phụ thuộc điều kiện giao hàng của hợp đồng mua bán. Theo các điều kiện
thơng mại quốc tế “INCOTERMS 2000” (International Commercial Tearms) có mời ba
điều kiện giao hàng đợc phân chia thành bốn nhóm E, F, C, D có sự khác nhau về cơ bản
nh sau: Thứ nhất là nhóm E- quy ớc ngời bán đặt hàng hoá dới quyền định đoạt của ngời
mua ngay tại xởng của ngời bán (điều kiện E- giao tại xởng); Thứ hai là nhóm F- quy ớc
ngời bán đợc yêu cầu giao hàng hoá cho một ngời chuyên chở do ngời mua chỉ định
(nhóm điều kiện F: FCA, FAS và FOB); Thứ ba là nhóm C- quy ớc ngời bán phải hợp
đồng thuê phơng tiện vận tải, nhng không chịu rủi ro về mất mát hoặc h hại đối với hàng
hoá hoặc các phí tổn phát sinh thêm do các tình huống xảy ra sau khi đã gửi hàng và bốc
hàng lên tàu (nhóm điều kiện C: CFR, CIF, CPT và CIP); Thứ t là nhóm D- quy ớc ngời
bán phải chịu mọi phí tổn và rủi ro cần thiết để đa hàng hoá tới địa điểm quy định (nhóm
điều kiện D: DAF, DES, DEQ, DDU, DDP). Trong đó thông dụng nhất là điều kiện FOB,
CFR và CIF.
Trong các điều kiện giao hàng, ngoài phần giá hàng, tuỳ theo từng điều kiện cụ thể
mà có thêm cớc phí vận chuyển và phí bảo hiểm. Có những điều kiện giao hàng mà ngời
bán không có trách thuê tàu vận chuyển và mua bảo hiểm cho hàng hoá. Nh vậy, tuy bán
đợc hàng nhng dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm sẽ do ngời mua đảm nhận (điều kiện FOB).
Có trờng hợp giao hàng theo điều kiện mà ngoài việc xuất khẩu đợc hàng hoá, ngời bán
còn có trách nhiệm thuê tàu vận chuyển và mua bảo hiểm cho hàng hoá (điều kiện CIF).
Thực tế, các tập đoàn kinh tế hoạt động trên nhiều lĩnh vực sản xuất, vận chuyển, bảo
hiểm ... khi giao hàng theo điều kiện nhóm C và D, bên cạnh việc bán hàng còn giành cho
họ dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm cho số hàng đó. Vì vậy, nếu nhập khẩu hàng theo điều
kiện FOB, hay điều kiện CFR thì sẽ giữ đợc dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm, hay chỉ dịch
vụ bảo hiểm. Nếu trong hoạt động nhập khẩu, bán hàng theo gía CIF, ngời bán cũng giữ
đợc dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm. Nh vậy sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành
vận tải đờng biển và ngành bảo hiểm của quốc gia đó.
Nói chung, trách nhiệm của các bên liên quan đợc phân định nh sau:
- Trách nhiệm của ngời bán (bên xuất khẩu): phải chuẩn bị hàng hoá theo đúng hợp
đồng trong mua bán ngoại thơng về số lợng, chất lợng, quy cách, loại hàng, bao bì đóng
gói ...và tập kết hàng đến cảng tới ngày nhận, thông báo tàu đến nhận chuyên chở, giao
hàng cho tàu khi qua lan can an toàn mới hết trách nhiệm về những rủi ro tai nạn đối với
hàng hoá. Ngoài ra, ngời bán phải làm các thủ tục hải quan, kiểm dịch, lấy giấy chứng
nhận kiểm định phẩm chất, đóng gói bao bì phải chịu đợc điều kiện vận chuyển bốc dỡ
thông thờng. Cuối cùng, ngời bán phải lấy đợc vận tải đơn sạch. Nếu bán hàng theo điều
kiện CIF ngời bán còn có trách nhiệm mua bảo hiểm cho lô hàng hoá sau đó ký hậu vào
đơn bảo hiểm để chuyển nhợng quyền lợi bảo hiểm cho ngời mua.
- Trách nhiệm của ngời mua (bên nhập khẩu): nhận hàng của ngời chuyên chở theo
đúng số lợng, chất lợng... đã ghi trong hợp đồng vận chuyển và hợp đồng mua bán ngoại
thơng, lấy giấy chứng nhận kiểm đếm, biên bản kết toán giao nhận hàng với chủ tàu, biên
bản hàng hoá h hỏng đổ vỡ do tàu gây lên (nếu có), nếu có sai lệch về số lợng hàng đã
nhập khác với hợp đồng mua bán nhng đúng với hợp đồng vận chuyển thì ngời mua bảo lu
quyền khiếu nại đối với ngời bán. nếu phẩm chất, số lợng hàng hoá đợc nhận có sai lệch
với vận tải đơn thì ngời mua căn cứ vào biên bản trên bảo lu quyền khiếu nại với chủ
phơng tiện chuyên chở. Ngoài ra, ngời mua còn có trách nhiệm mua bảo hiểm cho hàng
hoá nếu mua hàng theo giá CF và mua bảo hiểm, thuê tàu trả cớc phí vận chuyển hàng hoá
nếu mua hàng theo gía FOB hay nhận lại chứng từ bảo hiểm do ngời bán chuyển nhợng
nếu mua hàng theo giá CIF.
-Trách nhiệm của ngời vận chuyển: chuẩn bị phơng tiện chuyên chở theo yêu cầu kỹ
thuật thơng mại và kỹ thuật hàng hải, giao nhận hàng đúng quy định theo hợp đồng vận
chuyển. Theo tập quán thơng mại quốc tế thì tàu chở hàng bắt buộc phải tham gia bảo hiểm
thân tàu và P and I. Ngời vận chuyển còn có trách nhiệm cấp vận đơn cho ngời gửi hàng.
Vận đơn (Bill of Loading) là một chứng từ vận chuyển hàng hải trên biển do ngời vận
chuyển cấp cho ngời gửi hàng nhằm nói lên mối quan hệ pháp lý giữa ngời vận chuyển,
ngời gửi hàng và ngời nhận hàng. Có nhiều loại vận đơn, nhng ở đây chỉ quan tâm đến hai
loại cơ bản là: vận đơn hoàn hảo (Clean B/L) hay còn gọi là vận đơn sạch và vận đơn
không hoàn hảo (Unclean B/L). Ngời vận chuyển phải chịu trách nhiệm với những rủi ro
xảy ra đối với hàng hoá theo quy định và phải có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc cho lô hàng
hoá chuyên chở trong hành trình từ cảng đi đến cảng đích.
- Trách nhiệm của ngời bảo hiểm: có trách nhiệm với những rủi ro đợc bảo hiểm gây
ra cho lô hàng hoá tham gia bảo hiểm, ngời bảo hiểm cũng có trách nhiệm kiểm tra các
chứng từ liên quan đến hàng hoá, hành trình vận chuyển và bản thân tàu chuyên chở. Khi
xảy ra tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm, ngời bảo hiểm có trách nhiệm tiến
hành giám định, bồi thờng tổn thất và đòi ngời thứ ba nếu họ gây ra tổn thất này.
2. Các loại rủi ro và tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đờng biển.
2.1. Rủi ro trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đờng biển.
Rủi ro trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đờng biển là những
tai nạn, tai hoạ, sự cố xảy ra một cách bất ngờ ngẫu nhiên hoặc những mối đe doạ nguy hại,
khi xảy ra sẽ gây lên tổn thất cho đối tợng đợc bảo hiểm. Ví dụ nh : tàu đắm, hàng mất,
hàng bị đổ vỡ, h hỏng... Rủi ro trong xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng đờng biển
có nhiều loại, căn cứ vào nguồn gốc phát sinh có thể phân rủi ro thành những loại sau:
* Thiên tai : Thiên tai là những hiện tợng tự nhiên mà con ngời không thể chi phối
đợc nh : biển động, bão, gió lốc, sét đánh, thời tiết xấu, sóng thần...
* Tai hoạ của biển: là những tai hoạ xảy ra đối với con tàu ở ngoài biển nh : tàu bị
mắc cạn, đâm va, đắm chìm, cháy nổ, tàu bị lật úp, mất tích... những rủi ro này đợc gọi là
những rủi ro chính.
* Các tai nạn bất ngờ khác: là những thiệt hại do các tác động ngẫu nhiên bên ngoài,
không thuộc những tai hoạ của biển nói trên. Tai nạn bất ngờ khác có thể xảy ra trên biển
nhng nguyên nhân không phải là một tai hoạ của biển, có thể xảy ra trên bộ, trên không
trong quá trình vận chuyển, xếp dỡ hàng hoá, giao nhận, lu kho, bảo quản hàng nh : hàng
hoá bị vỡ, lát, hấp hơi, thiếu hụt, mất trộm, mất cắp, không giao hàng ... những rủi ro này
đợc gọi là những rủi ro phụ.
* Rủi ro do bản chất hoặc do tính chất đặc biệt của đối tợng bảo hiểm hoặc những
thiệt hại mà nguyên nhân trực tiếp là chậm chễ.
Theo nghiệp vụ bảo hiểm thì những rủi ro của hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đờng biển có thể đợc chia thành các loại sau đây:
* Rủi ro thông thờng đợc bảo hiểm: là những rủi ro đợc bảo hiểm một cách bình
thờng theo các điều kiện bảo hiểm gốc. Đây là những rủi ro mang tính bất ngờ ngẫu nhiên
xảy ra ngoài ý muốn của ngời đợc bảo hiểm nh: thiên tai, tai hoạ của biển, tai nạn bất ngờ
khác tức là bao gồm cả rủi ro chính và rủi ro phụ.
* Rủi ro bảo hiểm riêng: là những rủi ro mà muốn đợc bảo hiểm thì phải thoả thuận
riêng, thoả thuận thêm chứ không đợc bồi thờng theo các điều kiện bảo hiểm gốc. Loại rủi
ro này gồm : rủi ro chiến tranh, đình công, khủng bố đợc bảo hiểm theo điều kiện riêng.
* Rủi ro không đợc bảo hiểm: là những rủi ro không đợc ngời bảo hiểm nhận bảo
hiểm hoặc không đợc ngời bảo hiểm bồi thờng trong mọi trờng hợp. Đó là các rủi ro đơng
nhiên xảy ra, chắc chắn xảy ra hoặc các thiệt hại do nội tỳ, bản chất của hàng hoá, do lỗi
của ngời đợc bảo hiểm, thiệt hại mà nguyên nhân trực tiếp là chậm trễ, rủi ro có tính chất
thảm hoạ mà con ngời không lờng trớc đợc, quy mô, mức độ và hậu quả của nó.
Tóm lại, các rủi ro đợc bảo hiểm phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra tổn thất. Việc
phân nguyên nhân trực tiếp hay nguyên nhân gián tiếp có vai trò rất quan trọng để xác định