Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
VŨ THỊ NGỌC KIM
DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT
ĐOÀN MINH PHƢỢNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2020
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
VŨ THỊ NGỌC KIM
DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT
ĐOÀN MINH PHƢỢNG
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. ÔN THỊ MỸ LINH
THÁI NGUYÊN - 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn
là trung thực, khách quan và chƣa có ai công bố trong bất cứ công trình
nghiên cứu nào.
Tôi xin cam đoan các thông tin trích dẫn trong luận văn đều ghi rõ
nguồn gốc.
Thái Nguyên, ngày 28 tháng 9 năm 2020
T c giả Luận văn
Vũ Thị Ngọc Kim
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hƣớng dẫn khoa học TS.
Ôn Thị Mỹ Linh đã tận tình dạy bảo, hƣớng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá
trình hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ
văn, phòng Đào tạo trƣờng Đại học Sƣ phạm - Đại học Thái Nguyên đã giúp
đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập cũng nhƣ trong quá
trình thực hiện luận văn.
Bên cạnh đó tôi xin chân thành cảm ơn tác giả Đoàn Minh Phƣợng đã
hết lòng hỗ trợ thông tin, giúp đỡ để tôi hoàn thành đƣợc luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và ngƣời thân, các anh các chị
bạn đọc đã động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 12 năm 2020
Tác giả
Vũ Thị Ngọc Kim
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................ii
MỤC LỤC........................................................................................................iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................. 10
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 11
5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................. 11
6. Đóng góp của luận văn................................................................................ 12
7. Cấu trúc của luận văn.................................................................................. 12
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ......................................... 13
1.1. Khái niệm hậu hiện đại ............................................................................ 13
1.2. Văn học hậu hiện đại................................................................................ 20
1.3. Dấu ấn của hậu hiện đại trong văn học Việt Nam ................................... 22
1.4. Vài nét về nhà văn - đạo diễn Đoàn Minh Phƣợng và tác phẩm ............. 27
Chƣơng 2. DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI Ở PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐOÀN MINH PHƢỢNG ....................... 32
2.1. Cảm quan hậu hiện đại............................................................................. 32
2.1.1. Cảm quan về thế giới đổ vỡ .................................................................. 33
2.1.2. Cảm quan về con ngƣời: cô đơn, hoài nghi .......................................... 38
2.2. Mở rộng biên độ phản ánh hiện thực ....................................................... 55
2.2.1. Chiến tranh từ cái nhìn đa diện ............................................................. 55
2.2.2. Vấn đề tình dục từ góc nhìn hậu hiện đại ............................................. 60
2.2.3. Tôn giáo và sự giải thiêng..................................................................... 62
iv
Chƣơng 3. DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI Ở PHƢƠNG DIỆN NGHỆ
THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐOÀN MINH PHƢỢNG....... 73
3.1. Cấu trúc mảnh vỡ ..................................................................................... 73
3.1.1. Cấu trúc mảnh vỡ của không gian......................................................... 74
3.1.2. Cấu trúc mảnh vỡ của thế giới nhân vật ............................................... 79
3.2. Hiện thực huyền ảo và đa văn bản ........................................................... 85
3.2.1. Hiện thực huyền ảo ............................................................................... 85
3.2.2. Đa văn bản............................................................................................. 90
KẾT LUẬN.................................................................................................... 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 102
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Cách tân luôn là vấn đề trăn trở đối với những ngƣời làm nghệ
thuật. Chúng ta có thể thấy văn học Việt Nam từ sau 1986 đến nay hiện lên
nhƣ một bức tranh đa màu sắc. Ở đó các tác giả hiện đại và đƣơng đại không
ngần ngại thử sức với cái mới mong muốn tạo nên những luồng gió lạ cho nền
văn học dân tộc trong thời kì hội nhập toàn cầu.
1.2. Hậu hiện đại là một hệ hình tƣ duy mới thay thế cho hệ hình tƣ duy
hiện đại cũ của chủ nghĩa hiện đại. Đó là một sự vận động mang tính tất yếu
của lịch sử xã hội loài ngƣời. Văn học hậu hiện đại đã trở thành một trào lƣu
có mặt ở hầu khắp các nền văn học thế giới, không riêng gì ở châu Âu, châu
Úc mà đến cả châu Mĩ Latin và châu Á: Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc… Chủ
nghĩa hậu hiện đại (postmodernism) đƣợc coi là trào lƣu tƣ tƣởng - văn hoá -
triết học và nghệ thuật nổi lên ở phƣơng Tây từ sau chiến tranh thế giới thứ
hai, phát triển rộng khắp và có ảnh hƣởng mạnh mẽ đến sự phát triển của
nhân loại từ hai thập niên cuối của thế kỉ XX. Tuy nhiên, ở Việt Nam, chủ
nghĩa hậu hiện đại nói chung và văn học hậu hiện đại nói riêng vẫn còn là một
điều khá mới mẻ và có phần xa lạ. Nhìn từ thực tế của dòng chảy văn học có
thể thấy, tinh thần hậu hiện đại đƣợc các nhà văn chuyển chở vào tác phẩm
khá tích cực song vì những lí do chủ quan lẫn khách quan khiến việc tiếp
nhận của đọc giả có phần khó khăn. Những năm gần đây, thuật ngữ Chủ
nghĩa hậu hiện đại hay hậu hiện đại đƣợc xuất hiện nhiều hơn trong nhiều
công trình nghiên cứu văn học nghệ thuật. Hậu hiện đại trở thành nội dung
đƣợc bàn luận sôi nổi trong các cuộc hội thảo lớn. Điều này giúp cho bạn đọc
làm quen với bức tranh văn học hậu hiện đại thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam
trên nhiều lĩnh vực khác nhau nhƣ: phê bình, lí luận và trong thực tiễn sáng
tác. Số lƣợng công trình nghiên cứu theo xu hƣớng tìm hiểu dấu ấn Hậu hiện
đại trong các sáng tác văn học khá lớn trong những năm gần đây phần nào
cho thấy mức độ quan tâm của các nhà nghiên cứu với vấn đề này.
2
1.3. Ngoài các tác giả trong nƣớc có tác phẩm viết theo xu hƣớng Hậu
hiện đại nhƣ: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình
Phƣơng, Nguyễn Thúy Hằng, Vi Thùy Linh, Hoàng Hƣng, Phan Huyền Thƣ,
Nguyễn Hoàng Thế Linh, Jalau Anik, Inrasara, Hoàng Long Trƣờng, Lam
Hạnh… Đoàn Minh Phƣợng cũng đƣợc biết đến với tƣ cách một đạo diễn -
một nhà văn Việt Nam hải ngoại có lối viết mới lạ, đầy cuốn hút. Chị sinh ra
ở Việt Nam nhƣng sống và làm việc chủ yếu ở Đức. Tác phẩm đầu tay của chị
là truyện ngắn Tội lỗi hồn nhiên với bút danh Đoàn Minh Hà nhƣng độc giả
trong nƣớc chỉ thực sự biết đến chị qua tác phẩm Và khi tro bụi. Cuốn tiểu
thuyết này (có ngƣời gọi là truyện ngắn, truyện vừa vì tính chất thể loại không
đƣợc thể hiện rõ) xuất bản năm 2006, sau đó đƣợc tặng Giải thƣởng văn xuôi
của Hội nhà văn Việt Nam vào năm 2007. Cuốn tiểu thuyết ra đời đƣợc giới
nghiên cứu đề cao và đƣợc xem là một hiện tƣợng văn học năm 2006. Bên
cạnh đó, tiểu thuyết Mưa ở kiếp sau (Nxb Văn học, Hà Nội, 2010) tái bản với
tên gọi Tiếng Kiều đồng vọng (Nxb Hội nhà văn, 2020) cũng đƣợc coi là một
tác phẩm rất thành công của chị. Nhìn lại gia tài văn chƣơng của Đoàn Minh
Phƣợng có thể thấy nhà văn này coi trọng chất lƣợng hơn là chạy đua về số
lƣợng. Mặc dù, sáng tác đƣợc một số tác phẩm khác nhƣng hai cuốn tiểu
thuyết (đều thuộc loại ngắn) nói trên cũng đủ tạo nên ấn tƣợng mạnh trong
lòng độc giả về một cách viết mới lạ, mang đậm dấu ấn hậu hiện đại. Tắm
trong bầu không khí cởi mở của văn chƣơng hải ngoại, Đoàn Minh Phƣợng đã
thực hiện nhiều cách tân nghệ thuật đáng ghi nhận, góp phần làm sôi động
không khí đổi mới của văn xuôi Việt Nam đƣơng đại.
Đây là những lý do để chúng tôi quyết định chọn vấn đề Dấu ấn hậu
hiện đại trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng làm nội dung nghiên cứu
trong luận văn của mình.
3
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nghiên cứu về đặc điểm hậu hiện đại trong văn học Việt Nam
Ở Việt Nam, khái niệm “hậu hiện đại” lần đầu tiên đƣợc đề cập đến
trong nghiên cứu văn học là ở bài viết Từ văn bản đến tác phẩm văn học và
giá trị thẩm mỹ của Trƣơng Đăng Dung. Trong bài viết này, tác giả đã đƣa ra
những nhận thức mới từ thực tiễn lý luận Việt Nam. Tác giả đã ứng dụng
những tri thức lý luận Phƣơng Tây vào quá trình diễn giải mối quan hệ giữa
văn bản - ngƣời đọc và khẳng định sự tạo nghĩa chỉ có thể có đƣợc thông qua
hoạt động tiếp nhận (quá trình cụ thể hóa văn bản) của ngƣời đọc. Phần cuối
bài viết, tác giả nhận định, giá trị tác phẩm nghệ thuật của các thời đại, trong
đó có tác phẩm hậu hiện đại, đƣợc tồn tại nhờ các giá trị thẩm mỹ: “Một tác
phẩm có giá trị văn học lớn nhất là tác phẩm theo thời gian vẫn tạo ra nhiều
ấn tượng thẩm mỹ, nghĩa là tác phẩm đó luôn ẩn chứa tiềm năng thẩm mỹ. Có
những tác phẩm trong nhiều trường hợp, ở mọi giai đoạn lịch sử, có giá trị
thẩm mỹ chẳng những không mất đi mà còn định hình thành chuẩn mực cố
định. Cách gọi, cách đánh dấu những tác phẩm quá khứ thuộc về một trào
lưu, phong cách hay xu hướng văn học, nghệ thuật nào đó như nghệ thuật
Phục Hưng, Barốc, lãng mạn, hiện đại, hậu hiện đại, thậm chí hiện thực xã
hội chủ nghĩa… là cần thiết. Nhưng việc đó không phải là sự đánh giá mà chỉ
là sự ghi nhận vị trí lịch sử của tác phẩm đã từng được hệ thông quy ước của
thời đại đó coi là tác phẩm của nó mà thôi. Giá trị thẩm mỹ sẽ là tấm hộ
chiếu quyết định để tác phẩm văn học của thời đại này bước sang thời đại
khác và tiếp tục chịu sự đào thải, lựa chọn thông qua hệ thống thẩm mỹ quy
ước của thời đại mới.” [11; tr. 41-42].
Sau bài viết của Trƣơng Đăng Dung, khái niệm “hậu hiện đại” đƣợc đề
cập đến là ở ấn phẩm Văn hóa nghệ thuật thế kỷ XX những hiện tượng - trào
lưu - nhân vật tiêu biểu trong 100 năm qua do Nguyễn Nam và Lê Huy
Khánh biên soạn. Theo các tác giả, trào lƣu nghệ thuật hậu hiện đại đƣợc xem
4
là một trong số 100 hiện tƣợng văn hóa nghệ thuật đặc trƣng của thế kỷ XX,
ra đời vào những năm cuối 60 đầu 70, bắt đầu từ nghệ thuật kiến trúc, sau đó
lan rộng ra các lĩnh vực khác. Trong đó, hậu hiện đại là một trào lƣu gắn liền
với một thời kỳ lịch sử mới của nhân loại: “Đó là thập niên 1970, khi thái độ
“nhập cuộc” của hàng loạt văn nghệ sĩ không còn, khi diễn ra sự khủng
hoảng về hệ tư tưởng, khi hàng loạt nghệ sĩ trên thế giới quay lưng lại chính
trị để sáng tác một cách bình dị, đáp ứng nhu cầu thưởng thức theo cách quen
thuộc của công chúng. Thời kỳ này đồng thời cũng là thời kỳ hậu công nghiệp
trong kinh tế và xã hội.” [25; tr.179].
Phải đến năm 2000 trở đi, cụm từ “hậu hiện đại” sau một thời gian dài
vật vờ ngoài lề của tri thức Việt mới bắt đầu đƣợc dùng phổ biến trong đời
sống văn hóa nƣớc nhà, đƣợc sự quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu
và diễn ra nhiều cuộc tranh luận với những ý kiến, quan niệm, xu hƣớng khác
nhau. Trong thời gian này, Phƣơng Lựu đã công bố bài viết Tìm hiểu chủ
nghĩa hậu hiện đại [19]. Bài viết nêu trên của Phƣơng Lựu đã trực tiếp bàn về
các vấn đề của chủ nghĩa hậu hiện đại. Công trình này đƣợc xem nhƣ bƣớc
khởi động cho hoạt động nghiên cứu, phê bình văn hóa, văn học hậu hiện đại
ở Việt Nam, là tiếng nói chính văn góp phần xua đi sự e dè, ngần ngại của
nhiều ngƣời trƣớc “hậu hiện đại”…
Cùng với sự chuyển mình hội nhập với thế giới, Việt Nam ngày càng
khẳng định tên tuổi trong nhiều địa hạt từ kinh tế đến khoa học, văn chƣơng.
Văn học hậu hiện đại ra đời là một tất yếu. Kể từ năm 1986 và có thể sớm hơn,
văn chƣơng Việt đã bƣớc vào quỹ đạo của chủ nghĩa hậu hiện đại. Đây chính là
thời điểm cái mới - văn chƣơng hậu hiện đại đang từng bƣớc lên ngôi, khẳng
định vị thế của mình. Nhân vật của trong các tác phẩm viết theo trƣờng phái
hậu hiện đại thƣờng đa diện mạo và là phiến vỡ, mảnh vỡ của cuộc đời. Cốt
truyện trong tác phẩm luôn đột biến, thƣờng không có chuyện, hoặc ghép nối
vô vàn chuyện vụn vặt vào với nhau cốt để mọi ngƣời biết bản chất của sáng
5
tạo là cao cả trong tầm phào. Tinh thần hậu hiện đại thể hiện quan niệm: Bản
chất của cuộc sống là thiêng liêng trong hỗn độn, bản chất của văn chƣơng là
sự thật trong bịa đặt và tồn tại là một văn bản hay một dạng diễn ngôn nào đó
“đang bƣớc đi về nơi nó muốn” hay “về nơi độc giả muốn”... hoặc là nghiêm
túc đến nực cƣời qua những áng văn nhại mang đậm tính lễ hội...
Về bản chất, văn chƣơng hậu hiện đại Việt Nam gắn liền với văn hóa
bản địa nên việc học hỏi văn chƣơng thế giới là không nhiều. Dƣờng nhƣ nhà
văn, nhà thơ Việt chỉ tiếp thu tinh thần hậu hiện đại nhiều hơn là cấu trúc,
giọng kể... Chẳng hạn , đọc tác phẩm Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, ta sẽ thấy
bóng dáng của Cái trống thiếc (Gunter Grass) qua nhân vật tí hon, không lớn
thành ngƣời bình thƣờng của Oscar và Bé Hon... Cũng giống khi tiếp nhận
văn chƣơng lãng mạn, văn chƣơng hậu hiện đại Việt cũng là một dạng hỗn
dung nhiều thành phần. Ngƣời đọc có thể gỡ ra trong một tác phẩm những
thành tố cổ điển, hiện đại và cả hậu hiện đại. Chính điều này góp phần quan
trọng trong việc tạo nên một bản sắc hậu hiện đại Việt Nam.
2.2. Những nghiên cứu về tiểu thuyết của Đoàn Minh Phượng
Đoàn Minh Phƣợng sáng tác chƣa nhiều, công chúng biết đến chị chủ
yếu qua hai tiểu thuyết Và khi tro bụi và Tiếng Kiều đồng vọng (Mưa ở
kiếp sau). Thời điểm khi hai tiểu thuyết này ra đời, các đánh giá về chị và
hai tác phẩm trên chủ yếu tồn tại dƣới dạng các bài viết đơn lẻ mang tính
điểm lƣợc xuất hiện trên mạng, các bài báo hoặc lời giới thiệu của nhà xuất
bản nhƣ: ý kiến của Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam Hữu Thỉnh, của nhà
thơ Vũ Quần Phƣơng, của tác giả Nguyễn Thị Minh Thái, của tác giả
Trƣơng Hồng Quang. Đình Khôi với bài viết: Và khi tro bụi rơi về, Nguyễn
Tuấn với bài viết Và khi tro bụi …
Viết về tiểu thuyết Và khi tro bụi, tác giả Nguyễn Thanh Tú là ngƣời
đi xa hơn cả trong việc diễn giải tác phẩm. Trong bài viết Bi kịch hóa trần
thuật - Một phương thức tự sự [39], Nguyễn Thanh Tú không chỉ chứng
minh sự bi kịch hóa ở các cấp độ trong nghệ thuật tự sự mà anh còn xác định