Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

đánh giá nhận thức của bà mẹ có con dưới 5 tuổi về phòng chống SDD tại xã phước năng, huyện phước
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hạ thấp tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) trẻ em là một nhiệm vụ quan trọng
được Chính phủ nước ta đặt trong chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống
một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS [33]. Giảm suy dinh
dưỡng trẻ em cũng là một chỉ tiêu nằm trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X.
Mặc dù vậy, trong những năm gần đây cộng đồng y tế và dinh dưỡng
toàn cầu đã tập trung vào can thiệp tình trạng béo phì và các bệnh thiếu vi chất
dinh dưỡng đặc hiệu, nhưng suy dinh dưỡng ở bà mẹ và trẻ em vẫn tiếp tục là
gánh nặng cho các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình.
Theo số liệu thống kê năm 2007, có 20% trẻ em dưới 5 tuổi tại các quốc
gia có thu nhập thấp và trung bình bị suy dinh dưỡng (SDD) nhẹ cân. Tỷ lệ này
rất cao tại vùng Trung Nam Á và miền Đông châu Phi nơi số trẻ bị nhẹ cân lần
lượt là 33% và 28%, ước tính có đến 33% trẻ dưới 5 tuổi ở những quốc gia này
bị SDD thấp còi. Miền Đông và Trung Phi có tỷ lệ bệnh cao nhất, ước khoảng
50% và 42% bị thấp còi. Tổng số trẻ em bị ảnh hưởng bởi SDD thấp còi là cao
nhất, 74 triệu, hiện sống tại Nam Á và Trung Á. Châu Phi có 20 nước nằm trong
số các quốc gia có gánh nặng thấp còi cao nhất, 61triệu, chiếm hơn một nữa
(51%) tổng số trẻ em dưới 5 tuổi của Ấn Độ và chiếm 34% số trẻ bị thấp còi
trên toàn thế giới. Trên thế giới có 55 triệu (10%) trẻ em dưới 5 tuổi bị SDD thể
gầy còm nặng. Phổ biến nhất ở Trung Nam Á 29 triệu trẻ. Ngoài ra còn có 19
triệu trẻ em trên thế giới bị SDD thể gầy còm rất nặng [24], [37].
Như vậy suy dinh dưỡng ở trẻ em hiện nay vẫn là vấn đề sức khoẻ cộng
đồng quan trọng hàng đầu.
Nghèo đói và thiếu kiến thức là nguyên nhân gốc rễ của suy dinh dưỡng
[21], suy dinh dưỡng và nhiễm khuẩn là một vòng luẩn quẩn vừa là nguyên
1
nhân, vừa là hậu quả, suy dinh dưỡng trẻ em càng cao thì giống nòi càng kém
phát triển về thể lực và trí tuệ.
Phấn đấu hạ thấp tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em là một việc làm cấp thiết và
không chỉ là công việc của ngành y tế mà phải là một hoạt động có sự tham gia
của nhiều ngành của toàn xã hội bắt đầu từ sự chăm sóc, nuôi dưỡng đứa trẻ từ
khi người mẹ mang thai cho đến khi lọt lòng và cả quá trình phát triển về sau.
Hạ thấp tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, chiến lược phòng chống suy dinh
dưỡng Việt Nam với phương châm “dự phòng” nghĩa là đảm bảo cho trẻ em
sinh ra khoẻ mạnh được chăm sóc, nuôi dưỡng để không suy dinh dưỡng là
chính. Để thực hiện được chiến lược này vấn đề giáo dục các kiến thức phòng
chống suy dinh dưỡng cho các bà mẹ đã được triển khai trong chương trình
phòng chống suy dinh dưỡng và các chương trình y tế khác nhằm giúp cho các
bà mẹ đầy đủ kiến thức tự chăm sóc mình và chăm sóc, nuôi dưỡng tốt con trẻ.
Qua nhiều năm thực hiện chương trình phòng chống suy dinh dưỡng tại
địa phương, để hiểu rõ sự thay đổi hành vi của các bà mẹ về vấn đề này, chúng
tôi tiến hành đề tài:
“Đánh giá nhận thức của bà mẹ có con dưới 5 tuổi về phòng chống SDD
tại xã Phước Năng, huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam năm 2008”
Đề tài nhằm các mục tiêu sau:
1- Xác định tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi tại xã Phước Năng,
huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam.
2- Tìm hiểu nhận thức và các mối liên quan về phòng chống suy dinh dưỡng
của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã Phước Năng, huyện Phước Sơn, tỉnh
Quảng Nam.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. MỘT SỐ NÉT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CHƯƠNG
TRÌNH PHÒNG CHỐNG SUY DINH DƯỠNG
Từ khi loài người xuất hiện thì vấn đề dinh dưỡng cũng được đặt ra. Lúc
đầu chỉ nhằm giải quyết chống lại cảm giác đói và sau đó người ta thấy ngoài
việc thoả mãn nhu cầu, bữa ăn còn đem lại cho người ta niềm thích thú. Ăn là
một yếu tố của sự phát triển. Tuy nhiên những người thầy thuốc qua quan sát
người bệnh đã sớm thấy rõ được mối liên quan giữa chế độ ăn và sức khoẻ.
Tình trạng đói ăn hoặc cung cấp thức ăn không đầy đủ các chất dẫn đến giảm
cân, gầy còm, hậu quả trẻ chậm phát triển đã được biết hàng thế kỷ nay. Hầu hết
các thầy thuốc đầu thế kỷ 20 đã công nhận rằng thiếu ăn gây ra sự chậm phát
triển ở trẻ em, song ở dạng này của SDD thường không được mô tả như một hội
chứng bệnh, trừ khi nó dẫn đến gầy còm trầm trọng .
Năm 1908, Cotrea đã gọi suy dinh dưỡng là bệnh “rắn nhỏ” vì trẻ em mắc
bệnh có thể nhỏ bé, da có lằn màu sẫm lẫn màu nhạt như da rắn [19].
Đầu những năm 30, Cicely William đang làm việc tại Ganna đã dùng thuật
ngữ “Kwashiorkor” sử dụng từ địa phương mà có nghĩa là “bệnh của những đứa
trẻ bị bỏ rơi” [15], để mô tả một hội chứng mà trước đó thường lầm tưởng với
bệnh “Pellagra”.
Tổ chức y tế thế giới đã tổ chức nhiều đoàn khảo sát ở Châu Phi và bệnh
suy dinh dưỡng protein năng lượng đã nhanh chóng được coi là bệnh dinh
dưỡng quan trọng nhất trên thế giới [15].
Vào năm 1959, thuật ngữ “SDD protein - calo” được sử dụng để chỉ những
dạng thiếu protein, thiếu năng lượng và dạng trung gian của hai dạng trên [15].
3
Năm 1966, Jellife đã đề nghị tên gọi “SDD protein - năng lượng” vì mối
liên quan giữa thể phù và thể đét. Từ đó thuật ngữ Suy dinh dưỡng Protein -
năng lượng (Protein - Energy - Malnutrition) thay thế các thuật ngữ trước.
Năm 1978, Tuyên ngôn Alma Ata của tổ chức y tế thế giới đã coi dinh
dưỡng hợp lý và tạo thêm nguồn thực phẩm là một trong các hoạt động then
chốt để đạt được mục tiêu sức khoẻ cho mọi người ở năm 2000.
Năm 1992, Hội nghị cấp cao về dinh dưỡng toàn thế giới họp tại Roma đã
kêu gọi các quốc gia có kế hoạch hành động cụ thể nhằm xoá nạn đói và nâng
cao hiểu biết về dinh dưỡng [17].
Ở nước ta, vào năm 1985 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng
nhân ngày thầy thuốc Việt Nam (27 - 02 - 1985) đã chỉ thị “Trong những năm
sắp tới bằng những biện pháp toàn diện về kinh tế, văn hoá - xã hội cần nâng
cao một bước rõ rệt về sức khoẻ của nhân dân lao động, thanh toán cơ bản các
bệnh nhiễm khuẩn, ký sinh trùng, các bệnh xã hội, các bệnh do SDD, là những
dấu hiệu của các nước chậm phát triển” [16].
Ngày 16 - 9 – 1995, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch hành động
quốc gia về dinh dưỡng 1995 - 2000 (Quyết định 576/TTg) [26].
Ngày 22 - 02 - 2001, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược Quốc
gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001 - 2010.( Quyết định 21/TTg) [28].
1.2. TÌNH HÌNH SUY DINH DƯỠNG Ở MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU
VỰC VÀ TRONG NƯỚC
Suy dinh dưỡng protein - năng lượng đang là vấn đề hàng đầu của sức khoẻ
trẻ em, thường xảy ra ở các nước chậm phát triển, có tỷ lệ đói nghèo cao, an
ninh lương thực, thực phẩm không đảm bảo, y tế kém phát triển, các điều kiện
vệ sinh môi trường còn nhiều bất cập.
4
1.2.1. Tình hình suy dinh dưỡng một số nước trong khu vực:
Các hình thái lâm sàng của SDD protein - năng lượng thay đổi tuỳ theo
vùng, ở Châu Á và Nam Mỹ thể gầy đét thường gặp hơn thể phù, trong khi đó ở
Châu Phi, Nam sa mạc Sahara thể phù lại nhiều hơn [19].
Theo báo cáo của UNICEF, trên thế giới ngày nay có khoảng 146 triệu trẻ
em dưới 5 tuổi được xem là thiếu cân, phần lớn tập trung ở châu Á, châu Phi và
châu Mĩ Latin [37].
Theo bà Bellamy Giám đốc Quỹ Nhi đồng liên hiệp quốc: tình trạng suy
dinh dưỡng và thiếu hiểu biết đã làm gần 10 triệu trẻ em dưới 5 tuổi trên thế
giới chết mỗi năm do các căn bệnh có thể ngăn ngừa được như tiêu chảy, sởi...
[24].
1.2.2. Tình hình suy dinh dưỡng ở Việt Nam
Đối với nước ta tình hình SDD vẫn còn cao, sau nhiều năm chiến tranh tỷ lệ
SDD ở trẻ em Việt Nam rất cao 51,2% vào năm 1985, và năm 1995 là 44,9%.
Trong vòng 10 năm (1985 - 1995) bình quân mỗi năm giảm 0,6%, đây là giai
đoạn điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn. Trong giai đoạn 1995 - 2005
với sự ra đời của Kế hoạch hành động Quốc gia về dinh dưỡng cùng với điều
kiện kinh tế xã hội được cải thiện thì tỷ lệ SDD trẻ em giảm xuống còn 25,2%
năm 2005 và bình quân giảm 1,9%/năm [37].
Theo Viện dinh dưỡng năm 2007 cả nước còn 21,2% trẻ em dưới 5 tuổi
SDD, trong đó Độ I: 18,3%, Độ II:3,8%, Độ III: 0,1% [24].
Mặc dù tỷ lệ SDD đã giảm, song không đồng đều giữa các khu vực, Đông
Nam Bộ là 17,9%, đồng bằng sông Cửu Long là 20,7%, Nam Trung Bộ là
20,7%, Đông Bắc là 23,8%, Tây Bắc là 27,2%, Bắc Trung Bộ là 25,0%,cao nhất
vẫn là Tây Nguyên 31% [24].
1.2.3. Tình hình suy dinh dưỡng ở tỉnh Quảng Nam
Tỉnh Quảng Nam là một tỉnh nghèo với dân số trên 1,8 triệu người đa phần
người dân sống bằng nông nghiệp, gồm 17 huyện và thị xã, trong đó có 6 huyện
5