Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đặc điểm câu đơn trong truyện nguyễn nhật ánh nhìn từ bình diện cấu trúc đề - thuyết, cấu trúc nghĩa biểu hiện, cấu trúc thông tin.
PREMIUM
Số trang
195
Kích thước
1.8 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
876

Đặc điểm câu đơn trong truyện nguyễn nhật ánh nhìn từ bình diện cấu trúc đề - thuyết, cấu trúc nghĩa biểu hiện, cấu trúc thông tin.

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

*******

TRẦN THANH HUYỀN

ĐẶC ĐIỂM CÂU ĐƠN

TRONG TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH

NHÌN TỪ BÌNH DIỆN CẤU TRÚC ĐỀ - THUYẾT,

CẤU TRÚC NGHĨA BIỂU HIỆN, CẤU TRÚC THÔNG TIN

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Mã ngành: 60.22.02.40

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ HỌC

Đà Nẵng - Năm 2017

Công trình được hoàn thành tại

Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng

Người hướng dẫn khoa học:

TS. Trần Văn Sáng

Phản biện 1:

…………………………………………………………….

Phản biện 2:

…………………………………………………………….

Luận văn sẽ được bảo vệ trước

Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Ngôn ngữ học,

họp tại Trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN,

Vào ngày…… tháng….. năm 2017.

Có thể tìm hiểu luận văn tại:

- Trung tâm Thông tin - học liệu, Đại học Đà Nẵng.

- Thư viện Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng.

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Việc nghiên cứu câu trong tiếng Việt theo tiêu chí hình

thức còn gặp nhiều khó khăn, bởi tiếng Việt là ngôn ngữ không biến

hình. Các nhà Việt ngữ học đã vận dụng thêm tiêu chí về nghĩa để

nhận diện câu, tuy nhiên, vấn đề về nghĩa lại bao hàm cả nghĩa biểu

hiện, nghĩa thông báo. Điều này đã gây khó khăn trong việc phân

chia các thành phần câu. Câu đơn được xem xét làm cơ sở trong cấu

tạo ngữ pháp của câu, dựa trên cấu trúc chủ - vị (CT C-V). Vì vậy,

theo quan điểm ngữ pháp truyền thống, CT C-V được coi là cấu trúc

nòng cốt của câu đơn.

Vấn đề nghiên cứu phân tích cú pháp câu đơn ở nước ta từ

trước đến nay chủ yếu theo hướng phân tích kết cấu chủ - vị. Phương

pháp này xuất phát từ cấu trúc hình thức, căn cứ vào hình thức biểu

hiện và vai trò cú pháp của các bộ phận trong câu để phân biệt các

thành phần câu. Tuy nhiên, hướng phân tích câu theo CT C-V đã bộc

lộ những hạn chế nhất định khi chuyển câu từ chức năng biểu thị sự

tình sang chức năng truyền tải thông điệp, chủ ngữ không trùng với

chủ thể tâm lí. Để tránh những bất cập này, trong sự phát triển của

ngữ pháp học hiện đại, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học đã thấy rõ

yêu cầu cần phải phân tích câu tiếng Việt cả về cấu trúc hình thức lẫn

nghĩa biểu hiện và nghĩa dụng học. Các tác giả Lưu Vân Lăng và Cao

Xuân Hạo đã trở thành những người mở đầu trong lĩnh vực nghiên

cứu cú pháp tiếng Việt theo khuynh hướng ngữ pháp chức năng và

ngữ pháp ngữ nghĩa. Theo đó, cách tiếp cận chức năng rất thích hợp

để miêu tả ngữ pháp tiếng Việt, dựa trên ba bình diện nghiên cứu câu

là kết học, nghĩa học và dụng học. Song, người nghiên cứu cần tách

bạch ba bình diện trên, không được lẫn lộn những sự kiện của bình

2

diện này sang bình diện khác.

Từ thực tiễn của việc nghiên cứu cú pháp câu đơn tiếng Việt,

chúng tôi thấy rằng chưa có một công trình nào đi sâu tìm hiểu đặc

điểm câu đơn tiếng Việt dựa trên các bình diện cấu trúc đề - thuyết,

cấu trúc nghĩa biểu hiện, cấu trúc thông tin, trừ một số khảo cứu ở

mức độ sơ lược hoặc chỉ đề cập một bình diện cụ thể. Bên cạnh đó

vẫn tồn tại các ý kiến khác nhau về các phương pháp nghiên cứu câu

đơn tiếng Việt, tức là theo quan điểm ngữ pháp truyền thống hay

hướng ngữ pháp chức năng (NPCN). Do đó, đề tài này sẽ góp phần

bổ khuyết bức tranh về phương pháp nghiên cứu câu đơn trong tiếng

Việt hiện nay nhìn từ lí thuyết ba bình diện.

1.2. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh xuất hiện vào những năm 80

của thế kỉ XX, khi nền văn học nước nhà đang trên đà đổi mới cả về

tư duy sáng tác cũng như phương thức thể hiện. Văn học từ cảm

hứng sử thi dần chuyển sang cảm hứng thế sự - đời tư. Đó cũng là

thách thức đối với Nguyễn Nhật Ánh và nhiều nhà văn viết cho thiếu

nhi khác. Song, Nguyễn Nhật Ánh đã tìm cho mình được lối viết

riêng và trở thành “hoàng tử bé trong thế giới tuổi thơ”.

Truyện của Nguyễn Nhật Ánh hầu hết viết về lứa tuổi học trò

với những kỉ niệm và kí ức đẹp đẽ, hồn nhiên của tuổi mới lớn. Văn

phong nổi bật của nhà văn là tính dí dỏm, hài hước và lạc quan. Điều

này thể hiện rõ trong việc sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Nhà văn đã

vận dụng linh hoạt vốn từ sẵn có để tạo nên những câu văn hay và

thú vị. Vì vậy, nghiên cứu về ngôn ngữ trong truyện Nguyễn Nhật

Ánh thông qua hệ thống câu đơn sẽ cho chúng ta có cái nhìn toàn

diện hơn về đặc điểm câu đơn trên các bình diện kết học, nghĩa học

và dụng học.

Dựa trên những vấn đề lí thuyết về phân tích cú pháp câu đơn

3

dưới góc nhìn của NPCN, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Đặc

điểm câu đơn trong truyện Nguyễn Nhật Ánh nhìn từ bình diện cấu

trúc đề - thuyết, cấu trúc nghĩa biểu hiện, cấu trúc thông tin.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

2.1. Việc tìm hiểu về cú pháp tiếng Việt đã được nhiều nhà

nghiên cứu trong nước và nước ngoài quan tâm từ những năm đầu

của thập niên 60 của thế kỉ XX. Trên thế giới, tiêu biểu có

Lekomtsev và Thompson. Tại Việt Nam, Cao Xuân Hạo được coi là

người mở đầu cho việc nghiên cứu cú pháp tiếng Việt theo đường

hướng chức năng và ngữ nghĩa với công trình: Tiếng Việt - Sơ thảo

ngữ pháp chức năng. Ông cho rằng, cấu trúc cú pháp cơ bản của

tiếng Việt là CT Đ-T. Nguyễn Hồng Cổn trong bài viết: Cấu trúc cú

pháp của câu tiếng Việt: chủ - vị hay đề - thuyết? cũng theo quan

niệm này. Phân tích câu tiếng Việt theo hướng NPCN tiếp tục được

Cao Xuân Hạo cùng Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn Bằng, Bùi Tất

Tươm làm rõ trong cuốn Ngữ pháp chức năng tiếng Việt, Quyển 1

(Phần Câu trong tiếng Việt). Trong công trình này, các nhà nghiên

cứu đã phân tích, phân loại cấu trúc ngữ pháp của câu tiếng Việt trên

ba bình diện: CT Đ-T, nghĩa và công dụng.

Trong một định hướng khác, Nguyễn Văn Hiệp và Nguyễn

Minh Thuyết đã phân xuất và nhận diện ngữ pháp tiếng Việt trên cả

hai bình diện nội dung và hình thức. Còn Đào Thanh Lan trong công

trình: Phân tích cấu trúc câu đơn tiếng Việt theo cấu trúc đề - thuyết

lại chủ trương vận dụng cùng một lúc năm tiêu chí để xác lập bộ

khung cấu trúc của câu đơn tiếng Việt. Đó là các tiêu chí về nghĩa tạo

lập phát ngôn, nghĩa biểu thị thực tại khách quan, vai trò quan hệ cú

pháp, hình thức biểu hiện bằng vị trí và hình thức. Kết quả là danh

sách các thành tố cấu trúc câu tiếng Việt theo tác giả sẽ gồm có: chu

4

ngữ, minh xác ngữ, đề ngữ, định ngữ, thuyết ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ.

Gần đây, Diệp Quang Ban cũng thể hiện quan điểm phân tích cú

pháp tiếng Việt theo định hướng NPCN trong công trình: Ngữ pháp

Việt Nam. Tác giả đã áp dụng theo lí thuyết của Halliday để phân tích

câu tiếng Việt theo ba siêu chức năng: siêu chức năng kinh nghiệm,

siêu chức năng liên nhân và siêu chức năng văn bản. Sự phân tích của

Diệp Quang Ban về các loại cấu trúc khác nhau của câu tiếng Việt:

cấu trúc cú pháp, cấu trúc nghĩa biểu hiện, cấu trúc thức, cấu trúc đề.

NPCN cũng nhấn mạnh chức năng thông tin của câu. Đa số

các nhà nghiên cứu cho rằng: bình thường, phần thuyết có giá trị

thông báo chủ yếu; nó được người nghe chú ý nhiều hơn, so với phần

đề; đối với người nói và người nghe, phần thuyết là “mới”, phần đề là

“cũ”. Nhưng có khi, trong những hoàn cảnh nhất định, giá trị thông

báo chủ yếu lại ở phần đề.

Câu tiếng Việt đã được nghiên cứu trên cả ba bình diện và thực sự

được nghiên cứu với tư cách là đơn vị cơ bản của hoạt động giao tiếp.

Các công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học là cơ sở giúp

chúng tôi có cái nhìn toàn diện hơn về việc phân tích đặc điểm câu

đơn tiếng Việt trên mô hình lí thuyết ba bình diện.

2.2. Nguyễn Nhật Ánh là một “hiện tượng” của nền văn học

Việt Nam đương đại, nhiều tác phẩm của ông đã trở thành “Best￾seller” và được dịch ra tiếng nước ngoài. Ông đã thu hút sự chú ý của

nhiều nhà nghiên cứu, lí luận phê bình hiện thời. Có thể kể đến một

số nghiên cứu tiêu biểu như: Tập sách mang tính kỉ yếu: Nguyễn

Nhật Ánh – Hiệp sĩ của tuổi thơ – kết quả của Hội thảo khoa học

mang tên: “Nguyễn Nhật Ánh – Hành trình chinh phục tuổi thơ” do

Trung tâm Ngôn ngữ và văn học – nghệ thuật trẻ em (Trường Đại

học Sư phạm Hà Nội) tổ chức; Đặc điểm truyện Nguyễn Nhật Ánh

5

(luận văn Thạc sĩ) của tác giả Bùi Thị Thu Thủy; Nguyễn Nhật Ánh –

người kể chuyện của thiếu nhi của Thái Phan Vàng Anh; Nghệ thuật

trần thuật trong tác phẩm Ngồi khóc trên cây (luận văn Thạc sĩ), tác giả

Nguyễn Thị Thuấn.

2.3. Truyện Nguyễn Nhật Ánh vẫn đang được khai thác. Tuy

nhiên, những nghiên cứu đi sâu vào các vấn đề ngữ pháp trong tác

phẩm vẫn đang là vấn đề bỏ ngỏ. Do vậy, tìm hiểu câu đơn trong

truyện Nguyễn Nhật Ánh dựa vào lí thuyết ba bình diện trong nghiên

cứu ngữ pháp tiếng Việt hiện nay là một vấn đề mới mẻ và có tính

khả thi.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn tập trung hướng vào những mục tiêu cụ thể sau:

- Hệ thống hóa các kiểu cấu trúc câu đơn trong tiếng Việt: CT

Đ-T, CTTT, CT NBH.

- Góp phần nhận diện và đề xuất phương pháp phân tích câu

đơn từ lí thuyết ba bình diện.

- Chỉ ra nét đặc trưng phong cách trong câu văn truyện Nguyễn

Nhật Ánh.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đặc điểm câu đơn trong truyện Nguyễn Nhật Ánh trên các

bình diện: CT Đ-T, CTTT, CT NBH.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về phương diện nghiên cứu, CT Đ-T, CTTT, CT NBH có thể

được nghiên cứu trên nhiều kiểu câu, dạng câu: câu đơn, câu phức,

câu ghép, câu đặc biệt. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ,

chúng tôi chỉ khảo sát trên các câu đơn tường thuật, một dạng cấu

trúc câu tiêu biểu trong cấu trúc cú pháp của tiếng Việt.

6

Về nguồn cứ liệu, chúng tôi khảo sát câu đơn trong hai truyện

của Nguyễn Nhật Ánh:

(1) Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (2016), NXB Trẻ.

(2) Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ (2016), NXB Trẻ.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu đặc thù của luận văn là phương pháp

miêu tả ngôn ngữ học với các thao tác, thủ pháp cơ bản sau:

- Thủ pháp thống kê - phân loại: Luận văn sử dụng thao tác

phân loại để sắp xếp ngữ liệu khảo sát vào các dạng kiểu câu phục vụ

cho quá trình nghiên cứu. Đó là: phân loại ngữ liệu thành các kiểu

câu dựa vào tiêu chí CT Đ-T, CTTT và CT NBH; phân loại các hình

thức biểu hiện cụ thể của các kiểu cấu trúc.

- Thủ pháp mô hình hóa: thủ pháp mô hình hóa được sử dụng

để phân tích các kiểu cấu trúc của từng ví dụ, phục vụ cho việc tìm

hiểu và biểu diễn quan hệ giữa chúng.

- Phân tích - miêu tả các kiểu cấu trúc câu thông qua cách phân

tích thành tố trực tiếp, phân tích vị từ - tham thể, phân tích ngôn cảnh:

Sau khi phân loại ngữ liệu, luận văn tiến hành phân tích các kiểu cấu

trúc trong từng ngữ liệu được lựa chọn bằng hình thức mô hình (như đã

nói ở trên). Từ đó, miêu tả quan hệ giữa các cấu trúc thông qua sự tương

ứng giữa các thành tố trong từng cấu trúc khác nhau. Phương pháp phân

tích - miêu tả được dùng để tường minh hóa các mô hình và quan hệ

giữa CT Đ-T với CTTT, CT Đ-T với CT NBH; CTTT với CT NBH.

6. Đóng góp của đề tài

6.1. Về phương diện lí thuyết

- Hệ thống hóa lại các quan điểm, các khuynh hướng nghiên

cứu câu trong tiếng Việt.

- Chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của các phương pháp phân

7

tích câu tiếng Việt hiện nay.

6.2. Về phương diện thực tiễn

- Vận dụng lí thuyết ba bình diện về phân tích cú pháp vào việc

nghiên cứu và giảng dạy ngữ pháp tiếng Việt trong nhà trường hiện nay.

- Góp phần chỉ ra những đặc trưng ngôn ngữ văn chương và

cách giải mã văn chương từ góc nhìn ngôn ngữ.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, phụ

lục, luận văn gồm 3 chương.

Chƣơng 1. Cơ sở lí luận và những vấn đề liên quan; Chƣơng

2. Các kiểu câu đơn trong truyện Nguyễn Nhật Ánh nhìn từ bình diện

cấu trúc đề - thuyết, cấu trúc nghĩa biểu hiện và cấu trúc thông tin;

Chƣơng 3. Mối quan hệ giữa cấu trúc đề - thuyết với cấu trúc nghĩa

biểu hiện, cấu trúc thông tin và tầm tác động của câu đơn trong

truyện Nguyễn Nhật Ánh.

Chƣơng 1.

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

1.1. Các khái niệm cơ bản: câu, cú, phát ngôn

1.1.1. Khái niệm câu

Có nhiều định nghĩa về câu của nhiều nhà nghiên cứu, tuy

nhiên, chúng tôi sử dụng định nghĩa của tác giả Cao Xuân Hạo và

Nguyễn Thiện Giáp. Theo đó, câu là đơn vị cơ bản của lời nói, của

ngôn từ, của văn bản. Nó là đơn vị nhỏ nhất có thể sử dụng vào việc

giao tế. Nói cách khác, câu là ngôn bản (văn bản) nhỏ nhất. Cao

Xuân Hạo coi CT Đ-T là cấu trúc cú pháp cơ bản của câu.

1.1.2. Khái niệm cú (tiểu cú)

Thuật ngữ “cú” trong tiếng Việt được dịch từ thuật ngữ

“clause” trong tiếng Anh.

8

Khác với câu, cú là đơn vị được tạo lập không phải để thông

báo mà là để biểu hiện các sự tình, gần với chức năng biểu hiện của

ngôn ngữ. Thuật ngữ “cú” (của một số tác giả khác) là “tiểu cú” (của

Cao Xuân Hạo). Theo đó, tiểu cú có cấu trúc như của câu nhưng lại

chỉ là một ngữ đoạn. Tiểu cú khác câu chính là ở chỗ nó không phản

ánh một hành động nhận định (statement), được thực hiện ngay khi

phát ngôn để đưa ra một mệnh đề, mà biểu thị một cái gì được coi

như “có sẵn”, mỗi tiểu cú ứng với một bậc đề - thuyết của CT Đ-T.

1.1.3. Khái niệm phát ngôn

Theo Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học, phát ngôn trong ngôn

ngữ học là một khúc đoạn lời nói (hay viết) do một người nói đơn

nhất tạo ra và có chỗ lặng ở cuối phần lời của người đó, cụ thể là một

trường hợp thực hiện việc nói (hay viết) trải dài trong thời gian và

thường được dùng làm tài liệu của phân tích diễn ngôn, phân tích

việc sử dụng ngôn ngữ, không dùng để phân tích hệ thống ngôn ngữ.

1.2. Giới thuyết về lí thuyết ba bình diện trong nghiên cứu câu

tiếng Việt

1.2.1. Bối cảnh ra đời

a. Thành tựu và hạn chế của ngữ pháp hình thức, cấu trúc

Về thành tựu: thể hiện rõ chức năng của các thành phần câu.

Về hạn chế: không quan tâm đến nghĩa và tác dụng giao tiếp.

b. Ngữ pháp chức năng, ngữ pháp ngữ nghĩa và sự cần thiết

của việc phân tích câu từ lí thuyết ba bình diện

NPCN là một lí thuyết và một hệ phương pháp được xây trên

quan điểm coi ngôn ngữ như một phương tiện thực hiện sự giao tiếp

giữa người với người. Trào lưu NPCN đã tận dụng và khai triển

những thành tựu cơ bản của các khuynh hướng chức năng luận như

trường Praha, tín hiệu học Ch.S. Pierce, của lí thuyết hành động ngôn

9

từ J.L.Austin. Nó gắn với những tên tuổi lớn của ngôn ngữ học trên

thế giới: Ch.N. Li và S.A.Thompson (1976), Dyvik (1984), Tesnière,

Ch. Fillmore (1968), S.Dik (1989), M.A.Halliay (1985), Martin

(2006), v.v. Ở Việt Nam, tiêu biểu là Cao Xuân Hạo (Tiếng Việt - Sơ

thảo ngữ pháp chức năng), Hoàng Văn Vân (Ngữ pháp kinh nghiệm

của cú tiếng Việt mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống), Diệp

Quang Ban (Ngữ pháp Việt Nam).

Về phương diện ngữ nghĩa, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã

nhận thấy ngữ pháp học cần phải xây dựng một cách tiếp cận mang

tính ngữ nghĩa. Mối liên hệ giữa phương tiện thể hiện (mặt hình thức)

và mục đích thể hiện (mặt nội dung) hiểu theo quan điểm NPCN là

mối liên hệ giữa ba bình diện: kết học (syntactics), nghĩa học

(semantics), dụng học (pragmatics) theo lí thuyết kí hiệu học của

Ch.Moris (1938). Giữa ba bình diện này có mối quan hệ khăng khít

của hình thức với nội dung, của phương tiện với mục đích. Do đó,

việc phân tích câu tiếng Việt từ lí thuyết ba bình diện là rất cần thiết.

1.2.2. Các quan điểm cụ thể

a. Quan điểm của S.Dik

S.C. Dik đã nêu ra hai mô hình tiếp cận ngôn ngữ gồm mô

hình hình thức và mô hình chức năng (nghĩa học, cú pháp, dụng

pháp). Bình diện kết học thực hiện chức năng biểu thị mối quan hệ

của các yếu tố ngôn ngữ trong câu. Bình diện nghĩa học thực hiện

chức năng biểu thị vai trò của những yếu tố tham gia vào sự tình

phản ánh thực tại khách quan. Bình diện dụng học thực hiện chức

năng biểu thị cương vị thông báo của các yếu tố trong tình huống

giao tiếp cụ thể nhằm những mục đích cụ thể. Cả ba bình diện chức

năng này đều tham gia vào việc xác lập cả hai mặt hình thức và nội

dung của các biểu thức ngôn ngữ.

10

b. Quan điểm của Halliday

Mô hình tam phân của Halliday khác với mô hình tam phân

của Dik ở chỗ cả ba bình diện của câu đều thuộc mặt nghĩa. Ông coi

câu là sản phẩm của ba quá trình biểu nghĩa diễn ra đồng thời. Ba

bình diện nghĩa này được gọi là nghĩa ý niệm, nghĩa liên nhân và

nghĩa văn bản. Halliday đưa CT C-V (mà các tác giả khác đặt vào

bình diện cú pháp được quan niệm như một bình diện thuần túy hình

thức) vào bình diện nghĩa liên nhân.

c. Quan điểm của Cao Xuân Hạo

Cao Xuân Hạo cho rằng cấu trúc cú pháp cơ bản của tiếng Việt

phải là CT Đ-T. Hai thành tố của cấu trúc này tương ứng với hai thành

phần của một hành động nhận định hay hành động mệnh đề. Trong

tiếng Việt, ranh giới của đề và thuyết được đánh dấu bằng khả năng

thêm các tác tử “thì, là, mà”. Cấu trúc câu trần thuật “chia hết” cho hai

thành phần đề, thuyết và câu có thể có một hoặc hai bậc đề thuyết trở

lên. Cao Xuân Hạo không đồng tình với việc xếp CT Đ-T vào bình

diện dụng học.

1.2.3. Câu tiếng Việt nhìn từ bình diện kết học

a. Phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị

Các công trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên đi theo

hướng phân tích chủ - vị thuộc về các tác giả như Trần Trọng Kim

(Việt Nam văn phạm), Phan Khôi (Việt ngữ nghiên cứu), Bùi Đức

Tịnh (Văn phạm Việt Nam). Cấu trúc cú pháp của câu thường được

mô tả qua khái niệm mệnh đề với nòng cốt là CT C-V.

Tuy nhiên, một số tác giả khác lại cho rằng cấu trúc cú pháp

của câu là một kết cấu tiêu điểm (focal construction) có vị ngữ làm

trung tâm và các bổ ngữ tiêu điểm (focal complement) (Nguyễn Minh

Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp). Còn theo Bùi Đức Tịnh, Nguyễn Kim

11

Thản, Lê Xuân Thại thì CT C-V không chỉ có chức năng biểu hiện sự

tình mà còn có chức năng truyền tải thông điệp.

b. Phân tích câu theo cấu trúc đề - thuyết

Các tác giả Lưu Vân Lăng, Cao Xuân Hạo đã đề xuất cách

phân tích câu theo CT Đ-T thay cho cấu trúc chủ - vị. Theo đó, câu

với tư cách là đơn vị “thông báo một mệnh đề” hay “phản ánh một

nhận định” được cấu trúc hóa thành hai phần đề và thuyết, trong đó

“đề là điểm xuất phát, là cái cơ sở, cái điểm tựa làm bàn đạp cho đà

triển khai của câu” ở phần thuyết. Cao Xuân Hạo khẳng định CT Đ-T

thuộc bình diện kết học chứ không thuộc bình diện dụng học.

1.2.4. Câu tiếng Việt nhìn từ bình diện nghĩa học

a. Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu

Những điều người nói trình bày, diễn đạt về những thứ trong

thế giới vật chất và tinh thần nên được gọi là nghĩa biểu hiện. Các

yếu tố ngôn ngữ diễn đạt nghĩa biểu hiện trong một câu kết hợp với

nhau làm thành cấu trúc nghĩa biểu hiện, gồm cấu trúc vị tố – tham

thể, tham thể và cảnh huống, loại hình sự thể. Mỗi sự việc thường là

một sự việc động, hay sự việc tĩnh, hay sự việc là quan hệ trừu tượng

cùng với các thực thể tham gia vào sự việc đó.

b. Nghĩa tình thái của câu

Trong logic học, khái niệm tình thái gắn với sự phân loại các

phán đoán, các mệnh đề logic dựa trên dựa trên những đặc trưng cơ

bản của hai thành phần chủ từ và vị từ, xét ở mức độ phù hợp của

phán đoán trong thực tế. Tính tình thái trong ngôn ngữ gồm tình thái

chủ quan và tình thái khách quan. Đặc điểm quan trọng nhất để phân

biệt tình thái khách quan và tình thái chủ quan là vai trò của người

nói hay tính chủ quan của người nói về sự đánh giá, mức độ cam kết

của người nói về điều được nói ra.

12

1.2.5. Câu tiếng Việt nhìn từ bình diện dụng pháp

a. Cấu trúc thông tin của câu

CTTT gồm phần nêu (cái cũ, TTC, cái đã biết, cái cho sẵn) là

phần đã có mặt trong ý thức của người nghe trước khi câu được nói

ra, và phần báo (thông tin mới) là phần không có mặt trong ý thức

của người nghe. Trong tiếng Việt, các phương tiện được dùng để

đánh dấu thông tin là ngữ điệu, trật tự từ, một số trợ từ và phó từ

nhấn mạnh. Hai phần nêu và báo có vị trí tự do. Trọng tâm của CTTT

là TĐTT.

b. Câu và lực ngôn trung của câu

Trong lí thuyết hành động ngôn từ, các phát ngôn có hai loại

nghĩa: nghĩa mệnh đề và nghĩa ngôn trung. Nghĩa ngôn trung là hiệu lực

mà người nói muốn phát ngôn có đối với người nghe. Khi nói ra một

câu, ta thể hiện ba hành động đồng thời: tạo lời, tại lời và mượn lời.

1.3. Quan niệm về cấu trúc cú pháp và câu đơn trong tiếng Việt

1.3.1. Quan niệm về cấu trúc cú pháp

Hiện nay, Việt ngữ học vẫn tồn tại hai quan điểm về cấu trúc

cú pháp: là CT Đ-T hay là CT C-V. Cấu trúc cú pháp phản ánh cách

tổ chức cú pháp của các kiểu câu khác nhau trong một ngôn ngữ cụ

thể. Cấu trúc cú pháp sẽ phân biệt với CT NBH (trên bình diện nghĩa)

và CT Đ-T (trên bình diện kết học). Nó tồn tại đồng thời với hai loại

cấu trúc này trong sự tương tác lẫn nhau để cùng nhau làm tốt nhiệm

vụ là công cụ giao tiếp quan trọng của con người. Luận văn sử dụng

quan niệm của Cao Xuân Hạo, coi CT Đ-T là cấu trúc cú pháp cơ bản

của câu.

1.3.2. Quan niệm câu đơn theo ngữ pháp truyền thống

Câu đơn là loại câu mà trong thành phần cấu tạo chỉ có một kết

cấu nòng cốt. Ngữ pháp truyền thống đã xóa bỏ sự phân biệt câu

13

phức và câu ghép để gọi chung hai loại câu này là câu phức hoặc câu

ghép, đối lập với câu đơn. Dựa vào kết cấu chủ - vị và nòng cốt câu,

ngữ pháp truyền thống phân loại thành câu đơn và câu ghép. Tuy

nhiên, trong nhà trường hiện nay, câu tiếng Việt được phân loại

thành: câu đơn, câu ghép, câu phức và câu đặc biệt.

1.3.3. Quan niệm câu đơn theo ngữ pháp chức năng

Các tác giả Diệp Quang Ban, Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Minh

Thuyết đều xếp CT Đ-T vào bình diện dụng học, tức là cấu trúc của

thông điệp, thông báo. Còn Cao Xuân Hạo cho rằng, định ngữ và bổ

ngữ không phải là những thành phần bậc câu trực tiếp cấu tạo câu,

mà đó chỉ là những thành phần phụ cho các từ trung tâm của các

ngữ, do đó không ảnh hưởng gì đến cấu trúc của câu. Từ câu hai bậc

(Đề hoặc thuyết bậc 1 do một CT Đ-T bậc 2 cấu tạo) trở lên có thể

gọi là câu nhiều bậc. Các tác giả Đào Thanh Lan, Nguyễn Hồng Cổn

cũng theo quan niệm này và dựa vào CT Đ-T để xác định câu đơn.

Dựa vào CT Đ-T, câu đơn được phân thành câu đơn một bậc đề -

thuyết và câu đơn nhiều bậc đề - thuyết. Đây là quan niệm được dùng

để phân loại và miêu tả câu đơn trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.

1.4. Nguyễn Nhật Ánh và hành trình sáng tác

1.4.1. Về tác giả

Nguyễn Nhật Ánh đã thành công trong việc thu hút độc giả và

trở thành hiện tượng của văn học thiếu nhi cuối thế kỉ XX.

1.4.2. Sự nghiệp sáng tác

Suốt những năm cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, Nguyễn Nhật

Ánh luôn giữ kỉ lục về khối lượng tác phẩm và số lượng bản in nhiều

nhất. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng: Giải văn học Trẻ hạng A

(1990), Giải thưởng văn học (2002), Giải thưởng của Hội Nhà văn

Việt Nam và Giải thưởng văn học ASEAN (2010).

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!