Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Cuộc đấu tranh chống
PREMIUM
Số trang
306
Kích thước
3.7 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1714

Cuộc đấu tranh chống

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ- HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ NĂM 2008-2009

TÊN ĐỀ TÀI:

CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG DIỄN BIẾN

HÒA BÌNH Ở TÂY NGUYÊN

- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Mã số: B.08- 29

Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương

Thư ký đề tài: Th.S Nguyễn Thị Lệ Thủy

Cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị - Hành chính khu vực

III

7491

21/8/2009

Đà Nẵng, tháng 6 năm 2009

DANH SÁCH CỘNG TÁC VIÊN THAM GIA

NGHIÊN CỨU ĐÈ TÀI

1.TS Nguyễn Thị Hoài Phương: Phó trưởng khoa tư tưởng Hồ Chí Minh-Học viện CT-HC

khu vực III (chủ nhiệm đề tài)

2. Th.s Nguyễn Thị Lệ Thủy : Giảng viên khoa chính trị học, Học viện CT-HC khu vực III

(Thư ký đề tài)

3.PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn: Giám đốc Học viện CT-HC khu vực III

4. PGS.TS Trương Minh Dục: Phó Giám đốc Học viện CT-HC khu vực III

5. PGS.TS Hồ Tấn Sáng: Trưởng khoa chính trị học, HV CT-HC KV III

5. PGS.TS Phạm Hảo: Nguyên Giám đốc HVCT-HC KV III

6.PGS.TS Nguyễn Văn Nam: Trưởng khoa CNXHKH, HV CT-HC KV III

7. TS. Trần Quốc Long: Trưởng khoa tư tưởng Hồ Chí Minh, HVCT-HC KV III

8. PGS.TS Phạm Thanh Khiết: Nguyên trưởng khoa kinh tế phát triển, HV CT-HC KV III

9. Th.s Nguyễn Mậu Linh: Giảng viên khoa tư tưởng Hồ Chí Minh, HV CT-HC KV III

10.Trần Kỳ Rơi: Phó giám đốc Công an tỉnh Đắc Lắc

11. Nguyễn Thị Minh Vẻ: Trưởng Ban công tác nữ, Công an tỉnh Đắc Lắc

12. Nguyễn Văn Thái: Trưởng phòng điều tra, Công an tỉnh Kon Tum

13. Nguyễn Ngọc Doãn; Công an tỉnh Kon Tum

14. Nguyễn Văn Uấn: Công an tỉnh Gia Lai

15. Nay Đô: Phó giám đốc Công an tỉnh Đắc Nông

16. Lê Văn Phục: Giảng viên khoa CNXHKH, HV CT-HC KV III

17. Hoàng Thị Diệu Linh: Đại học Đà Lạt

18. Nguyễn Thị Minh Sơn: Chuyên viên huyện Ủy Chư Sê- Gia Lai.

CHỮ VIẾT TẮT

Campuchia: CPC

Hệ thống chính trị: HTCT

Chủ nghĩa xã hội: CNXH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa: CNH - HĐH

An ninh chính trị: ANCT

An ninh trật tự: ANTT

Chủ nghĩa xã hội: CNXH

Chủ nghĩa tư bản: CNTB

Đồng bào dân tộc thiểu số: ĐBDTTS

Dân tộc thiểu số: DTTS

Đạo Tin lành: DTL

Tin lành Đê ga: TL ĐG

Diễn biến hòa bình: DBHB

Chủ nghĩa đế quốc: CNĐQ

Cơ sở hạ tầng: CSHT

Định canh, định cư: ĐC- ĐC

Hội thánh Tin lành Việt Nam: HTTLVN

Niệm phật đường: NP Đ

Trung tâm cụm xã: TTCX

Ủy ban nhân dân: UBND

Trung học cơ sở: THCS

Phổ thông trung học: PHTH

Trật tự an toàn xã hội: TTATXH

Bảo vệ an ninh tổ quốc: BVANTQ

An ninh quốc phòng: ANQP

An ninh quốc gia: ANQG

Trật tự xã hội: TTXH

Giáo hội phật giáo: GHPGVN

Gia đình phật giáo: GĐPT

Phật giáo việt nam thống nhất: PGVNTN

Tổ chức Liên hiệp Cơ đốc và truyền giáo: CMA

Thu nhâph quốc nội: GDP

Đại biểu quốc hội: ĐBQH

Mặt trận thống nhất đấu tranh của các sắc tộc bị áp bức: FULRO

Mặt trận giải phóng cao nguyên của người thượng: FULRO Đê ga

Hội người thượng Đêga: MDA

Tổ chức phi chính phủ: NGO

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU Trang

1. Tính cấp thiết của đề tài. 1

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 4

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 9

3.1. Mục tiêu 9

3.2. Nhiệm vụ của đề tài 9

4. Phương pháp nghiên cứu 9

5. Những đóng góp của đề tài 9

6. Kết cấu của đề tài 9

CHƯƠNG I: TÂY NGUYÊN TRONG CHIẾN LƯỢC “DIỄN

BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC

11

1.1.Vị trí Tây Nguyên trong chiến lược “diễn biến hoà bình” của

chủ nghĩa đế quốc

11

1.1.1. Vài nét về tầm quan trọng chiến lược của khu vực Tây Nguyên

trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

11

1.1.2. Các nhân tố mà các thế lực thù địch lợi dụng để thực hiện chiến

lược “diễn biến hoà bình” ở Tây Nguyên

12

1.1.2.1. Tây nguyên – đặc điểm tự nhiên, địa lý 12

1.1.2.2. Đặc điểm kinh tế-xã hội, văn hóa 18

1.2. Âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” ở Tây nguyên thời

gian qua

28

1.2.1. Khái quát về âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với nước ta của

chủ nghĩa đế quốc hiện nay.

28

1.2.2. Hoạt động “diến biến hòa bình” ở Tây Nguyên thời gian qua. 32

1.2.2.1. Hoạt động “diến biến hòa bình” trên lĩnh vực chính trị- tư tưởng 32

1.2.2.2. Lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của chúng ta trong thực hiện

chính sách dân tộc ở Tây Nguyên của các lực lượng thù địch để thực hiện

“diễn biến hoà bình”

35

1.2.2.3. Những thủ đoạn hoạt động diễn biến hoà bình của các thế lực

thù địch thông qua lợi dụng vấn đề Fulrô

37

1.2.2.4. Việc lợi dụng vấn đề tôn giáo để truyền đạo Tin Lành trái phép

- một trong những thủ doạn diễn biến hoà bình ở Tây Nguyên

45

1.2.2.5.Những biểu hiện của “Diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực văn

hoá - xã hội.

49

1.2.2.6. Lợi dụng những yếu kém, và hạn chế trong kinh tế ở Tây

Nguyên để hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch

51

CHƯƠNG II: ĐẤU TRANH CHỐNG DIỄN BIẾN HÒA BÌNH Ở

TÂY NGUYÊN THỜI GIAN QUA – KẾT QUẢ VÀ NHỮNG VẤN

ĐỀ DẶT RA

59

2.1.Kết quả của cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”ở Tây

Nguyên thời gian qua

59

2.1.1.Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và cấp uỷ địa phương trong cuộc

đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” ở Tây Nguyên.

59

2.1.1.1.Nhận diện âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù

địch ở Tây Nguyên

59

2.1.1.2. Đề ra và thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, chính sách

đúng đắn về phát triển kinh tế - xã hội, chống âm mưu diễn biến hòa bình

ở các tỉnh Tây Nguyên.

61

2.1.2. Kết quả đạt được trong cuộc đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa

bình” ở Tây Nguyên; những hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra

71

2.1.2.1. Kết quả đạt được 71

2.1.2.2. Những hạn chế, nguyên nhân hạn chế trong cuộc đấu tranh

chống âm mưu ‘diễn biến hoà bình” ở Tây Nguyên

87

2.1.2.3.Những vấn đề đặt ra trong cuộc đấu tranh chống âm mưu “diễn

biến hoà bình” ở Tây Nguyên hiện nay

91

2.2. Một số kinh nghiệm từ cuộc đấu tranh chống “diễn biến hoà

bình” ở Tây Nguyên

94

CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM CHỐNG

“DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH” CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC TRÊN ĐỊA

BÀN CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN

101

3.1. Những dự báo tình hình và tình huống có thể xảy ra trong cuộc

đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” ở Tây nguyên thời gian tới.

101

3.1.1. Dự báo tình hình trong thời gian tới 101

3.1.2. Dự báo các tình huống có thể xảy ra trong cuộc đấu tranh chống

“diễn biến hòa bình” ở Tây Nguyên thời gian tới 113

3.2. Những giải pháp cơ bản góp phần đánh thắng chiến lược “diễn

biến hoà bình” trên địa bàn Tây Nguyên thời gian tới.

114

3.2.1. Coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng 115

3.2.2. Xây dựng, củng cố hệ thống chính trị vững mạnh từ tỉnh đến cơ

sở, đủ sức thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị và chủ động giải quyết các vấn

đề phát sinh từ cơ sở

121

3.2.3. Bảo đảm an ninh, chính trị, đấu tranh bóc gỡ tận gốc các tổ chức

Fulro hoạt động ngầm, kích động biểu tình bạo loạn

126

3.2.4. Đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống vật chất

và tinh thần cho nhân dân, giải quyết nhanh và có hiệu quả những vấn đề

xã hội bức xúc trong nhân dân

130

3.2.5. Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác dân tộc, tôn

giáo trên điạ bàn Tây Nguyên trong thời gian tới

136

3.2.6. Đẩy mạnh công tác dân vận 143

3.2.7. Nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán

bộ người dân tộc thiểu số

148

3.2.8. Thực hiện hiệu quả chính sách đổi mới, mở cửa của Đảng, tranh

thủ thu hút đầu tư phát triển, có biện pháp quản lý tốt các đoàn lâm thời du

lịch nước ngoài đúng chính sách, pháp luật bảo đảm an ninh trật tự

149

3.3. Một số kiến nghị liên quan đến cuộc đấu tranh chống “diễn

biến hòa bình” ở các tỉnh Tây Nguyên hiện nay

150

3.3.1. Kiến nghị đối với Đảng và Nhà nước 151

3.3.2. Kiến nghị với Đảng, chính quyền các tỉnh Tây Nguyên 152

KẾT LUẬN 162

Tài liệu tham khảo 173

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.

Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Lâm Đồng và

Đăk Nông. Có diện tích tự nhiên 5447,4 nghìn ha, chiếm 17,5% diện tích cả

nước, lớn gấp 1,4 lần diện tích các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Tây Nguyên

là khu vực rộng lớn có vị trí quan trọng về kinh tế và an ninh quốc phòng đối với

Việt Nam. Trong hàng chục năm nay, sự di cư ồ ạt của nhiều người, nhiều cộng

đồng dân tộc từ nhiều vùng miền khác nhau đến Tây Nguyên lập nghiệp đã làm

cho dân số và thành phần dân tộc của vùng thay đổi nhanh chóng. Theo thống kê

mới nhất, trên mảnh đất Tây Nguyên đang có 43 dân tộc anh em cùng chung

sống, trong đó người Kinh chiếm 65,8%, tiếp đến là các dân tộc thiểu số khác

như Ba Na, Ê Đê, Mnông, Gia Jai, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Brâu... Vì thế, có thể

nói Tây Nguyên là vùng đa màu sắc văn hoá tộc người, khá phong phú, phức tạp

về phương diện tín ngưỡng- tôn giáo và nhiều màu sắc nhất ở Việt Nam.

Trong lịch sử, Tây Nguyên là vùng đất hào hùng, giàu truyền thống cách

mạng, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trước

đây. Sống trên mảnh đất hùng vĩ bao đời, đồng bào các dân tộc ở đây đã chung

sức, đồng lòng tạo dựng nên một nền văn hóa hết sức phong phú và đậm đà bản

sắc dân tộc, với những di sản văn hóa vật thể, phi vật thể nổi tiếng và kho tàng

văn học dân gian hết sức đặc sắc. Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên có tinh

thần đoàn kết, cần cù, chịu khó và tương thân tương ái, yêu thương con người,

thiên nhiên, đất nước, chuộng hòa bình nhưng anh dũng bất khuất trong đấu

tranh chống giặc ngoại xâm.

Tây Nguyên không chỉ là vùng có tiềm năng to lớn cho sự phát triển kinh

tế, nơi ẩn chứa nhiều nhân tố nội sinh cho sự phát triển văn hoá tinh thần, phát

triển xã hội nói chung mà đây cũng là vùng trọng điểm trong chiến lược quốc

phòng, an ninh quốc gia. Với trên 580 km đường biên giới với Lào và

Campuchia, Tây Nguyên là địa bàn được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư,

2

xây dựng để cùng hoà nhập với tiến trình phát triển chung của đất nước, mặt

khác, cũng vì lẽ đó Tây Nguyên trở thành vùng trọng yếu, nhạy cảm mà các thế

lực đế quốc, phản động nhòm ngó, rắp tâm thực hiện cài cắm xây dựng lực

lượng, tạo dựng các "phong trào" nhằm chống phá công cuộc phát triển kinh tế,

xã hội, chống phá chế độ...

Từ sau ngày miền Nam được giải phóng, cả nước thống nhất, Đảng và

Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để đầu tư, xây dựng, phát triển

kinh tế, xã hội Tây Nguyên. Trên cơ sở đó, các cấp bộ đảng, chính quyền địa

phương đã phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị các cấp để lãnh đạo, chỉ

đạo và tạo dựng nhiều điều kiện cần thiết cho mọi người dân lao động, mọi tầng

lớp dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên hoà nhập, thích nghi với

lối sống mới, chế độ mới. Đặc biệt từ ngày đổi mới đến nay, nhịp điệu cuộc

sống, cách thức sản xuất, làm ăn của nhiều nhóm cư dân, nhiều chủ thể sản xuất,

kinh doanh trong vùng đã thực sự khởi sắc, năng động, sáng tạo và làm ăn ngày

càng có hiệu quả... Phần lớn đồng bào các dân tộc thiểu số ở các buôn làng đã

định canh, định cư, thực hiện thâm canh sản xuất hàng hoá. Rất nhiều trang trại,

nhiều vùng sản xuất tập trung cà-fê, cao su, dâu tằm, cây ăn quả, cây lương

thực... hình thành, phát triển đạt hiệu quả kinh tế hàng hoá cao. Nhiều phố mới,

làng mới, nhiều cơ sở hạ tầng được xây dựng, phát triển làm cho bộ mặt Tây

Nguyên hiện nay liên tục được thay da, đổi thịt theo dáng dấp của xã hội đang

trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhờ đó đời sống vật chất và tinh

thần của đa số tầng lớp dân cư ở Tây Nguyên được nâng lên rõ rệt so với thời kỳ

trước đổi mới

Tuy vậy, cũng cần nói thêm một thực tế khác, do nhiều nguyên nhân

khách quan và chủ quan khác nhau, nhìn tổng thể sự phát triển của các tỉnh Tây

Nguyên vẫn chưa hoàn toàn vững chắc, nhiều vấn đề bức xúc của đời sống kinh

tế, văn hoá, xã hội và đặc biệt là những vấn đề chính trị - xã hội phức tạp, nhạy

cảm vẫn đang tiềm ẩn sự "bùng nổ". Trong quá trình thực hiện chính sách dân

tộc của Đảng ở các tỉnh Tây Nguyên thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế,

khuyết điểm. Kinh tế vùng sâu, vùng xa chậm phát triển, đời sống đồng bào dân

tộc còn nhiều khó khăn, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội không đồng

3

bộ, đội ngũ cán bộ dân tộc, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý mặc dù được sự

quan tâm đào tạo nhưng vẫn còn thiếu và yếu. Thiếu những cán bộ có năng lực

tổ chức thực tiễn để lãnh đạo sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc

thiểu số. Do trình độ hạn chế của đội ngũ cán bộ nên đường lối, nghị quyết, chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chậm đi vào cuộc sống. Vì vậy, sự

phát triển kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn chậm, chưa tương

xứng với tiềm năng, công sức của nhân dân và sự quan tâm của Đảng và Nhà

nước. Nhiều vùng còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, tình trạng tranh chấp

đất đai, diễn ra thường xuyên, làm cho công tác quản lý hành chính gặp nhiều

khó khăn, quan hệ dân tộc càng phức tạp. Mặt khác, quá trình phát triển kinh tế

thị trường làm cho sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, nhất là

giữa người kinh và người dân tộc thiểu số tại chổ càng lớn. Đó là những nguyên

nhân xuất hiện tư tưởng bài kinh, làm cho khối đoàn kết dân tộc bị tổn thương.

Trong lĩnh vực an ninh, trật tự - an toàn xã hội đã và đang nẩy sinh khá

nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc, trong đó tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định

về Chính trị -xã hội, tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của vùng Tây

Nguyên. Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, cùng với những biến đổi trên

các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, sự thay đổi của cơ sở hạ tầng kéo theo

những biến đổi của kiến trúc thượng tầng, trong đó có tín ngưỡng tôn giáo. Nhu

cầu tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào các dân tộc thiểu số cũng có những thay

đổi. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch đẩy mạnh tuyền đạo Tin Lành

trái phép vào vùng các đồng bào thiểu số ở Tây Nguyên. Âm mưu và thủ đoạn

của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để lừa phỉnh, lôi kéo, mua chuộc, kích

động, gây chia rẽ, ly khai hòng gây bạo loạn lật đổ, chống phá cách mạng, đe

dọa an ninh quốc gia, phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ

quốc của nhân dân ta.

Trong những năm gần đây, các tổ chức tôn giáo, đặc biệt là đạo Tin Lành

tăng cường các hoạt động truyền giáo, lôi kéo, phát triển tín đồ trong đồng bào

dân tộc thiểu số. Đạo Tin Lành đã bành trướng rất nhanh trong đồng bào các dân

tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý ở đây là, cùng với hoạt

động truyền bá đạo Tin Lành, thời gian qua đã có nhiều hoạt động lợi dụng tôn

4

giáo của các thế lực thù địch trong và ngoài nước chống phá Việt Nam. Núp

bóng cái gọi là “Tin Lành Đề Ga”, chúng âm mưu thành lập một “nhà nước Đề

Ga tự trị”, chúng đã cài cắm, phát triển các cơ sở, tổ chức các hoạt động biểu

tình, bạo loạn. Các sự kiện diễn ra vào tháng 02 năm 2001 và tháng 04 năm

2004 ở các tỉnh Tây Nguyên (tập trung là những sự biến xảy ra ở 2 tỉnh Gia Lai

và Đăk Lăk) là một trong những loại tình huống chính trị-xã hội cụ thể phản ánh

tính chất phức tạp, nhạy cảm trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo ở

Tây Nguyên đó cũng chính là quá trình giải quyết các lực cản, tạo lập những tiền

đề, động lực cho sự phát triển bền vững ở các tỉnh Tây Nguyên thời kỳ tiếp theo.

Những ngày cuối tháng 01 đầu tháng 02 năm 2001 và những ngày trung

tuần tháng 04 năm 2004 ở nhiều địa phương (buôn, làng, xã, huyện, tỉnh) trên

vùng đất Tây Nguyên đã thực sự "nóng bỏng" lên bởi những cuộc biểu tình, gây

rối, chống phá chính quyền, chống phá chế độ của hàng nghìn người thuộc các

dân tộc thiểu số bản địa. Ngay khi sự kiện bùng phát, hoàn toàn có đủ cơ sở để

khẳng định, đây là những vụ bạo loạn chính trị mà các thế lực thù địch đã lợi

dụng các vấn đề dân tộc - tôn giaó nhằm chống phá công cuộc xây dựng CNXH

ở nước ta; là những sự kiện, biến cố khởi phát từ chuỗi những âm mưu, hoạt

động chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động trong

và ngoài nước phối hợp tiến hành.

Tuy nhiên, đứng trên quan điểm và phương pháp tiếp cận hệ thống lại

phải lưu ý rằng: Mục tiêu, âm mưu và hoạt động chống phá các nước xã hội chủ

nghĩa, chống phá phong trào cộng sản nói chung và chống phá cách mạng Việt

Nam (dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam) là bản chất, là tham vọng

cuả các thế lực đế quốc và các lực lượng phản động trong và ngoài nước. Song,

kẻ thù có khả năng thực hiện ý đồ đó đến đâu? Vào lúc nào? Ở đâu trên đất nước

ta?... Điều đó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, mà yếu tố quan trọng hàng đầu

chính là do tương quan so sánh lực lượng, tuỳ thuộc vào khả năng, sức mạnh của

chính chúng ta... Từ đó, có thể nói, các điểm nóng diễn ra ở Tây Nguyên vừa có

những nguyên nhân sâu xa vừa có những nguyên nhân trực tiếp, vừa có những

nguyên nhân nằm sâu trong lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội; vừa có những

nguyên cớ phát sinh từ những tình huống chính trị cụ thể, vừa có nguyên nhân từ

5

sự chống phá của các thế lực thù địch lại có nguyên nhân từ sự thiếu sót sai lầm

của chúng ta.

Có thể nhận thấy rằng, trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, thời gian qua các

thế lực thù địch đã lợi dụng trình độ thấp kém, lạc hậu, sự khác biệt nhất định về

kinh tế, xã hội văn hoá các dân tộc thiểu số để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa thông qua hoạt động “diễn biến hoà bình”. Do vậy, đi

đôi với nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội, phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu,

nước mạnh, thì phải hết sức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình"

của các thế lực thù địch. Nhiệm vụ đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà

bình” của các thế lực thù địch, chủ động loại trừ bạo loạn, lật đổ, giữ vững an ninh

quốc gia, bảo vệ thành quả cách mạng, phục vụ công cuộc đổi mới và phát triển, xây

dựng các tỉnh Tây Nguyên vững mạnh mọi mặt đang được đặt ra vừa mang tính cấp

bách, vừa mang tính lâu dài, quyết liệt, có tính chất sống còn đối với sự tồn vong và

phát triển của đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Vì vậy, việc nhận diện "diễn biến hoà bình" trên cả hai phương diện lý

luận và thực tiễn, đi sâu nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển, những thủ

đoạn, bản chất của chiến lược"diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc và các

thế lực phản động, đánh giá những kết quả, hạn chế và rút ra bài học kinh

nghiệm trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên địa bàn các tỉnh

Tây Nguyên là điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và hết sức cần thiết.

Xuất phát từ nhận thức trên, chúng tôi chọn đề tài “ Cuộc đấu tranh

chống “diễn biến hòa bình” ở Tây Nguyên -Thực trạng và giải pháp ” để

làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2008.

Trên ý nghĩa đó, thông qua quá trình nghiên cứu về lý luận và thực tiễn

những thủ đoạn mà các thế lực thù địch đã và đang tiến hành hoạt động chống

phá thông qua “diễn biến hoà bình” ở Tây Nguyên, chúng tôi tập trung phân tích

một số vấn đề có liên quan đến việc các thế lực thù địch đã lợi dụng vấn đề dân

tộc, tôn giáo để thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” và xem đó như là một

trong những phương diện có thể tiếp cận, cắt nghĩa và giải quyết, xử lý các tình

huống đã và đang diễn ra.

6

Qua nghiên cứu ở các tỉnh Tây Nguyên, mỗi thành viên đề tài nêu lên

những biện pháp cụ thể, từ đó tập hợp những biện pháp thống nhất có tính khả

thi để giảng viên vận dụng vào những bài giảng có liên quan trong chương trình

giảng dạy môn Quan hệ Quốc tế ở Học viện. Đồng thời cũng là tư liệu giúp cho

các cơ quan chức năng ở địa phương hiểu rõ hơn âm mưu và thủ đoạn chống phá

cách mạng trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên của các thế lực thù địch, trên cơ sở

đó không ngừng nâng cao cảnh giác, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt

động chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Là vùng đất nằm sâu trong nội địa Việt Nam, nhưng do có tầm quan trọng

về mặt chiến lược cũng như có nhiều nét độc đáo về tự nhiên, văn hóa, xã hội và

con người nên từ rất sớm Tây Nguyên đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và

ngoài nước chú ý tìm hiểu

Tây Nguyên được người Phương Tây chú ý đến nhiều kể từ cuối thế kỷ

XIX trở đi. Phần lớn những nghiên cứu của họ về Tây Nguyên thời kỳ này là

nghiên cứu dạng mô tả, phân tích với mục đích giúp họ hiểu kỹ lưỡng hơn về tự

nhiên, văn hóa, con người Tây Nguyên. Trong quá trình xâm lược và đô hộ Việt

Nam, để phục vụ việc bình định và khai thác Tây Nguyên, người Pháp đã đầu tư

nhiều hơn cho việc nghiên cứu vùng đất này, trong đó tiêu biểu như:

Công trình: “Les populations Moi du Darlac”(Những cư dân mọi ở Đắc

Lắc) của BecnardH, viết về con người và xã hội các dân tộc thiẻu số bản địa ở

Đắc Lắc, đăng tải ở “Bullentin d,

Ecole Francaises d`Extrème Orient”, Hà Nội,

năm 1907

Công trình “Lesjungles Moi” (Người Mọi rừng, của Maitre H, xuất bản ở

Pari năm 1912. Công trình này đã có đề cập đến con người, văn hóa – xã hội các

dân tộc thiểu số bản địa ở Tây Nguyên.

Cuốn sách: “En siuvant le piste des homes sur les Hauts –plateaux du

Vietnam” của Dounes J, xuất bản 1955 (Lần theo vết chân những người trên Cao

Nguyên ở Việt Nam), mô tả con người, sinh hoạt xã hội của một số dân tộc ở Tây

Nguyên.

7

Trong thời kỳ Mỹ xâm lược Việt Nam, các học giả Mỹ cũng đã đầu tư

nghiên cứu, tìm hiểu văn hóa, xã hội Tây Nguyên, chủ yếu là phục vụ mục đích

bình định và thôn tính Tây Nguyên. Chính phủ Mỹ đã bảo trợ cho một số học

giả Mỹ nghiên cứu và xuất bản những chuyên khảo về Tây Nguyên

Sau khi nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất cho đến nay, đặc biệt là giai

đoạn thời kỳ đổi mới đất nước 1986 đến nay, Nghiên cứu Tây Nguyên đã thu

hút nhiều nhà nghiên cứu của nhiều nước khác nhau.

Ở trong nước, bắt đầu từ thời Lê Thánh Tông trở đi Tây Nguyên mới được

nhắc đến nhưng còn rất mờ nhạt. Trong bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” và một số

cuốn sử biên soạn thời kỳ Hậu Lê, Tây Nguyên được nhắc đến sơ sài, trong tác

phẩm “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn cũng đã nói đến Tây Nguyên và người

Tây Nguyên. Ngoài ra nghiên cứu Tây Nguyên còn thể hiện trong các tập sách: Đại

Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam chính biên liệt

truyện...

Trong văn kiện các Đại hội, các Nghị quyết của Đảng đều đề cập đến đặc

điểm dân tộc, dân cư và có chính sách, chủ trương phù hợp ở Tây Nguyên. Các

đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm nghiên cứu về Tây

Nguyên. Tiêu biểu như: Cố Tổng bí thư Lê Duẩn trong bài báo: Tây Nguyên đoàn

kết tiến lên - Tạp chí Cộng sản 1978; Cố Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường

Chinh có bài viết: Đưa đồng bào các dân tộc Đắc Lắc lên Chủ nghĩa xã hội- Tạp

chí Cộng sản, 1983, đã phân tích những đặc thù về dân tộc, dân cư và chỉ đạo các

đảng bộ Tây Nguyên phải nghiên cứu, vận dụng để đề ra chủ trương, giải pháp cho

phù hợp.

Một số công trình chuyên khảo về dân tộc học như: Tây Nguyên của

Hoàng Văn Huyên (1980); Các dân tộc ít nguời ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam)

(1984); Đại cương về các dân tộc Êđê, M`nông ở Đăk Lăk của Bế Viết Đẳng và

các đồng tác giả (1982); Các dân tộc ở Gia Lai- Kon Tum do Đặng Nghiêm Vạn

chủ biên (1981); Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng do Mạc Đường chủ biên(1983);

Cộng đồng quốc gia dân tộc ở Việt Nam của GS.Đặng Nghiêm Vạn (2003) đã

8

giúp người đọc hiểu rõ nguồn gốc tộc người, đặc điểm kinh tế –xã hội của các

dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

Trên lĩnh vực kinh tế xã hội: Đáng chú ý chương trình cấp nhà nước 48-

09 Ủy ban khoa học xã hội, nay là Viện khoa học xã hội Việt Nam thực hiện

trong những năm 1980. Kết quả của chương trình được xuất bản thành 3 cuốn

sách: Một số vấn đề kinh tế- xã hội Tây Nguyên(1986); Tây Nguyên trên đường

phát triển(1990); Một số vấn đề kinh tế- xã hội các dân tộc thiểu số ở Đắc

Lắc(1990). Các công trình này đã tập trung nghiên cứu đặc điểm kinh tế- xã hội

của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, đưa ra căn cứ khoa học xác định các

hình thức, bước đi trong quá trình đưa đồng bào các dân tộc thiểu số Tây

Nguyên lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do hạn chế trong nhận thức về chủ

nghĩa xã hội lúc đó, các tác giả chưa thấy được xu hướng phát triển của vấn đề

dân tộc, quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Tây Nguyên.

Đặc biệt, gần đây có các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ như:

- Đề tài: Các hình thức kinh tế ở Tây Nguyên và xu hướng vận động trong

quá trình chuyển sang kinh tế hàng hóa, do TS.Trương Minh Dục làm chủ

nhiệm (1994- 1995)

- Phát triển kinh tế trang trại ở Tây Nguyên, do TS.Phạm Thanh Khiết

làm chủ nhiệm (1999-2000)

- Một số chính sách kinh tế- xã hội đối với các dân tộc ít người ở Tây

nguyên, do PGS.TS.Nguyễn Văn Chỉnh làm chủ nhiệm (1997-1998). Các công

trình này đã đề cập khá rõ nét về thực trạng phát triển kinh tế xã hội Tây Nguyên

trong thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở đó các tác giả đã đề cập đến những biến động

của yếu tố xã hội cần quan tâm.

Trên lĩnh vực chính trị đã có một số công trình như:

- Công trình nghiên cứu của tập thể tác giả do PGS. TS. Phạm Hảo và TS.

Trương Minh Dục chủ biên với cuốn “Một số vấn đề về xây dựng hệ thống

chính trị ở Tây Nguyên”, Nxb, CTQG, Hà Nội, năm 2003, tập thể tác giả đã tập

trung làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng hệ thống chính trị

9

Tây Nguyên, những vấn đề đặt ra ở các tỉnh Tây Nguyên trong xây dựng hệ

thống chính trị, trên cơ sở đó đã đưa ra những giải pháp cơ bản để xây dựng hệ

thống chính trị ở Tây Nguyên.

- Đề tài nhánh cấp nhà nước KX05-11 về cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ lãnh

đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới hiện nay ở Đắc Lắc (1993-1994);

“Một số vấn đề về xây dựng đôi ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện người các dân

tộc ở Tây Nguyên” do GS.TS.Lê Hữu Nghĩa làm chủ biên (2001). Các công

trình này đã trình bày những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng hệ thống

chính trị, đội ngũ cán bộ các dân tộc thiểu số; đánh giá thực trạng hệ thống chính

trị, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính

trị ở Tây Nguyên. Đề xuất các giải pháp để xây dựng hệ thống chính trị, xây

dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đọan hiện nay.

Trên lĩnh vực văn hóa: Ngoài các công trình nghiên cứu về sử thi, luật tục,

văn hóa dân gian, có một số công trình mang tính lý luận như: “Giữ gìn và phát

huy các giá trị văn hóa Tây Nguyên” do PTS. Nguyễn Hồng Sơn Và PTS.

Trương Minh Dục làm chủ biên (1996); “văn hóa các dân tộc Tây Nguyên thực

trạng và những vấn đề đặt ra”, do GS.TS. Trần Văn Bính chủ biên (2004); các

công trình này đã đánh giá các giá trị văn hóa của Tây Nguyên, thực trạng đời

sống văn hóa của các dân tộc thiểu số, đồng thời dự báo xu hướng và đề xuất

các giải pháp vừa cơ bản, vừa cấp bách nhằm xây dựng đời sống văn hóa, tinh

thần của các dân tộc, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa Tây Nguyên trong

quá trình thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước theo định

hướng xã hội chủ nghĩa.

Trên lĩnh vực quan hệ dân tộc; tôn giáo có các công trình như:

- “Xu hướng vận động của quan hệ dân tộc khu vực Tây Nguyên và đặc

điểm chính sách dân tộc đối với Tây Nguyên” là đề tài cấp bộ, do PTS. Nguyễn

Văn Nam làm chủ nhiệm đề tài (1994-1995). Các tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý

luận và thực tiễn về xu hướng vận động của quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên, đề

ra các giải pháp để xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc phù hợp với đặc

điểm Tây Nguyên. Tuy nhiên, các tác giả chưa thấy được những mầm móng của

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!