Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Cái tôi trữ tình trong chim mỏ vàng và hoa cỏ độc của đồng đức bốn.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------
KHÓA LUÂN T ̣ ỐT NGHIÊP ĐẠI HỌC ̣
NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Đề tài:
CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG CHIM MỎ VÀNG VÀ HOA
CỎ ĐỘC CỦA ĐỒNG ĐỨC BỐN
Người hướng dẫn:
TS. Ngô Minh Hiền
Người thực hiện:
Lê Thị Hồng Sương
Đà Nẵng, tháng 5/2013
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thơ Việt Nam sau 1975, đặc biệt khoảng mười năm trở lại đây, đã có
sự vận động và biến đổi hòa nhập với những chuyển biến của đời sống xã hội.
Dù không có vai trò nổi trội và tiên phong trong đời sống văn học như các thể
loại văn xuôi nhưng thơ vẫn rất phong phú, đa dạng, có nhiều tìm tòi, cách tân
mạnh mẽ mang lại một diện mạo mới cho nền văn học nghệ thuật nước nhà.
Trong khi các nhà thơ khác tìm kiếm, gắp nhặt từ mới và thể hiện
những cách tân mới lạ, Đồng Đức Bốn lại tìm về với mạch nguồn ca dao dân
tộc. Bằng cách giữ vững và “chưng cất hồn cốt dân gian” trong lối nói hiện
đại, ông đã tạo nên hàng trăm bài thơ hướng tới miền cộng sinh của cái đẹp,
sự dân dã và đạo làm người. Thế nên, thơ Đồng Đức Bốn vụt lên với sự sáng
trong giản dị mà không kém phần sâu sắc, mới lạ và ấn tượng như mang cả
hồn thiêng tổ tiên trong mỗi lời đối thoại, mỗi tiếng nhủ thầm. Có thể nói,
Đồng Đức Bốn là cây bút lục bát khoẻ khoắn và độc đáo của nền văn học
đương đại và sự xuất hiện của ông đã đem lại cho thơ lục bát, thơ truyền
thống một niềm tự tin đáng kể. Cách khai thác và thể hiện ngôn ngữ thơ của
Đồng Đức Bốn giúp chúng ta nhận diện một gương mặt thơ mới xuất hiện
nhưng có cá tính. Hơn thế, Đồng Đức Bốn đã ý thức rất rõ về giá trị thơ ca và
sứ mạng của người làm thơ để từ đó dấn thân và tạo nên những bài thơ đậm
hồn cốt dân tộc trong thời đại “vàng thau lẫn lộn” như hiện nay.
Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại đang là
một vấn đề quan trọng của tiến trình đổi mới thơ Việt Nam. Điều đó cũng có
nghĩa, cuộc sống đang đòi hỏi các nhà thơ cần tiếp tục khám phá, sáng tạo,
đồng thời giữ vững những giá trị thơ ca dân tộc để thơ tiếp tục đồng hành
cùng đời sống tinh thần của dân tộc. Bằng những sáng tác của mình, Đồng
3
Đức Bốn đã đi đến gần nhất bản thể giản dị của mình. Dừng lại ở những trang
thơ Đồng Đức Bốn, vẻ đẹp trữ tình của hồn quê, sự thức ngộ thâm trầm ẩn
chứa đằng sau lớp vỏ giản dị thuần phác của ngôn từ hiện lên thật sống động.
Trong các cây bút đương đại, ít người có được sự lăn lóc và nếm trải sâu sắc
đến như thế với nguồn mạch của văn học dân gian. Thơ Đồng Đức Bốn vì vậy
mà có được sự vang hưởng sâu xa trong dòng mạch thời gian và độc giả.
Khảo sát đặc điểm Cái tôi trữ tình trong Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc
của Đồng Đức Bốn, luận văn hướng tới làm nổi bật những đặc sắc mới mẻ
của cái tôi trữ tình trong thơ Đồng Đức Bốn. Qua đó, góp phần khẳng định tài
năng, bản lĩnh nghệ thuật của nhà thơ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có nhiều công trình, bài viết, nghiên cứu của các nhà khoa học quan
tâm đến thơ Đồng Đức Bốn.
Trong cuốn Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại, tập 2, Nguyễn Văn
Long nhìn nhận Đồng Đức Bốn là một trong số các “nhà thơ trẻ xuất hiện từ
sau 1975, nhất là từ đầu những năm 90, đã đem đến nhiều tiếng nói mới, cách
nhìn mới, xúc cảm mới trong thơ (…) họ mạnh dạn và tự do hơn trong sự tìm
tòi, thể nghiệm, với nhu cầu được bộc lộ hết mình con người cá nhân” [10,tr.
228]. Theo tác giả, đây là một cây bút đã “sử dụng thể thơ quen thuộc, đặc
biệt là lục bát, cố gắng tạo ra những thay đổi theo hướng tự do hơn về cách tổ
chức câu thơ, về nhịp điệu” [13,tr.240].
Đặng Thu Thủy trong cuốn Thơ trữ tình Việt Nam từ giữa thập kỉ 80
đến nay, những đổi mới cơ bản thì cho rằng “Đồng Đức Bốn là nhà thơ bảo
tồn, bảo lưu các giá trị thơ ca truyền thống. Cái hay của lục bát anh là sự chất
phác giống như ca dao, có sự ngậm ngùi của tình cảm và cả những kinh
nghiệm sống chua xót của người nhà quê trí thức lang bạt kì hồ chen lẫn vào”
[23,tr.96].
4
Nguyễn Huy Thiệp bằng tâm thế coi Đồng Đức Bốn là “người bạn
hiếm có”, “một thi sĩ đáng yêu nhất” [1,tr.965] đã khẳng định “Sự hiện đại
trong thơ Đồng Đức Bốn là ở nội lực bên trong từng câu thơ. Thơ hiện đại của
Đồng Đức Bốn chính là hơi thở, là hồn vía của cuộc sống hôm nay được
“quản thúc” trong niêm luật cổ truyền lục bát. Đồng Đức Bốn là vị cứu tinh
của thơ lục bát” [1,tr.547].
Còn nhà thơ Đỗ Minh Tuấn lại bày tỏ sự yêu mến và trân trọng đối với
nhà thơ tài năng này khi phát hiện “trong cái trân trọng của nhà thơ với tấm
tình của Bốn dành cho thơ, vẫn hé ra chút bùi ngùi thương cảm với những
bước “chân trần” lặn lội “đường xa”, “bơ vơ” gian truân trong đời thực. Bốn
cũng khốn khổ về vật chất như bao thi sĩ khác và cũng cô đơn, lận đận trong
chuỗi ngày dằng dặc đeo đuổi Nàng thơ như bao thi sĩ khác. Nhưng cái tấm
tình sâu nặng của riêng Bốn với thơ là ở chỗ này: tất cả những bất hạnh mất
mát lớn lao trong đời thực như cái chết của hai đứa con được Bốn tính cả vào
sự trả giá cho thơ” [1,tr.591-592].
Nhà văn Đình Kính trong bài viết Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức
Bốn - khác biệt và thành công lại coi “Đồng Đức Bốn là nhà thơ lục bát tài ba
bẩm sinh, trung thành với thơ truyền thống, bằng bút lực giàu ấn tượng đại
diện tiêu biểu cho thi pháp cổ điển”. Theo tác giả này, “Đồng Đức Bốn rất có
ý thức trong cách sử dụng ngôn từ” [11,tr.9].
Trong bài viết Đồng Đức Bốn đa đoan lục bát gọi nhau, nhà thơ Bùi
Kim Anh nhận ra Đồng Đức Bốn “chẳng làm duyên mà lục bát của anh thật
có duyên”, “vận dụng hình ảnh, từ ngữ rất thực mà độc đáo, bất ngờ”
[11,tr.22].
Tiến sĩ Nguyễn Hoài Nguyên khi xem xét đặc sắc về ngôn ngữ trong
thơ Đồng Đức Bốn đã phát hiện Đồng Đức Bốn “làm thơ bằng sự trải nghiệm
của anh “nhà quê ra tỉnh” thực hiện một cuộc dấn thân có phần liều lĩnh. Kẻ
5
nhà quê ấy cứ kể về đời mình, phận mình, ước vọng của mình với một giọng
điệu hồn nhiên, chân thành, bằng một ngôn từ độc đáo, có cá tính” [11,tr.51].
Trong khi đó, nhà phê bình Vương Trí Nhàn lại chú ý đến “cái tôi với
bao hậm hụi bất lực” trong thơ Đồng Đức Bốn. Ông cho rằng, Đồng Đức Bốn
dường như “không sao tìm được sự cân bằng trong tâm lý” [1,tr.33], “những
yếu tố hoang dại có mặt trong thơ Đồng Đức Bốn khắp mọi chỗ làm nên một
miền khí hậu riêng” [1,tr.22] và “ở nhà thơ này có một sự quyến quyện giữa
nội dung và hình thức, hoặc nói cho chữ nghĩa đương thời tức là sự nhất quán
của thi pháp” [1,tr.30].
Hữu Thỉnh trong bài phát biểu kết thúc hội thảo “Thơ Mai Văn Phấn và
Đồng Đức Bốn - khác biệt và thành công”, tổ chức tại Hải Phòng ngày
15/5/2011 đã đánh giá Đồng Đức Bốn là một nhà thơ “làm thơ đầy bản năng,
biết tận dụng khai thác triệt để cái bản năng ấy, thâm canh ở đó. Anh không
chỉ trở về mà là biết chưng cất hồn cốt dân gian, đẩy trực cảm thành một cuộc
lên đồng. Câu thơ của anh trở nên có phù phép, lộng lẫy, quen mà lạ, xa mà
gần, và chủ yếu là rất gợi. Có gì đâu, vì anh biết đánh thức con người nhà quê
tiềm ẩn đâu đó trong mỗi chúng ta” [11,tr.586].
Còn phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết Đồng Đức
Bốn - phiêu du vào lục bát lại cho rằng “sức hấp dẫn đầu tiên của thơ Đồng
Đức Bốn nói chung và lục bát nói riêng là sự quyết liệt và táo tợn, có khi bỗ
bã trong giọng điệu” [1,tr.648]. Theo ông, Đồng Đức Bốn phải “trải đời
nhiều, đau đời lắm mới ngang đến vậy. Nhưng ngang và “Quậy” mà vẫn giữ
được cái hồn nhiên, không rơi vào nắn nót, tỉa tót cầu kì, đó là cách Đồng
Đức Bốn làm thơ” [1,tr.648-649].
Trong khi đó, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo lại coi Đồng Đức Bốn “chính
là một nhà thơ hiện thực mang bi kịch lãng mạn”, “đã bắc cầu lục bát để đến
với cuộc đời này” [20,tr.86].
6
Ta còn thấy, nhà văn Lê Lựu gọi Đồng Đức Bốn là một nhà thơ “tài
năng ngang tàng” [1,tr.848] còn nhà thơ Tố Hữu thì thân mến gọi Đồng Đức
Bốn “một tiếng đờn đồng điệu ngọt ngào và chua xót” [1,tr.837]. Đồng Đức
Bốn được xem là “con người đặc biệt nhất làng văn Việt Nam, cả trong đời
thường lẫn trong văn chương” (Nhà thơ Trịnh Hoài Giang) [1,tr.579].
Đã có nhiều tác giả quan tâm đến Đồng Đức Bốn và thơ ông nhưng
chưa có một công trình độc lập tập trung nghiên cứu cái tôi trữ tình trong thơ
Đồng Đức Bốn. Do đó, đây là một “khoảng” để chúng tôi có thể thâm nhập,
giải mã đồng thời góp phần đánh giá vị trí, đóng góp của nhà thơ đối với thơ
ca đương đại cũng như đánh giá thơ Đồng Đức Bốn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: những khía cạnh nổi bật về đặc điểm nội dung và
nghệ thuật làm nên cái tôi trữ tình trong thơ Đồng Đức Bốn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Tập Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc, tác phẩm và dư
luận của Đồng Đức Bốn, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2006.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp hệ thống cấu trúc: Đặt các tác phẩm thơ trong tập Chim
mỏ vàng và hoa cỏ độc trong một chỉnh thể để xem xét đánh giá về những đặc
điểm nội dung, nghệ thuật của thơ Đồng Đức Bốn.
4.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp: Phân tích, lý giải, đánh giá những
biểu hiện độc đáo trong thơ Đồng Đức Bốn, đồng thời, tổng hợp, khái quát
vấn đề nhằm thấy được giá trị thơ ông qua tập Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc.
4.3. Phương pháp thống kê: khảo sát những yếu tố nghệ thuật có tần số xuất
hiện cao trong tập thơ nhằm đưa đến những kết luận khoa học.
4.4. Phương pháp so sánh - đối chiếu: So sánh đặc sắc cái tôi trữ tình trong
thơ Đồng Đức Bốn với các nhà thơ như Nguyễn Duy, Nguyễn Bính… có
7
những điểm tương đồng để thấy được những nét đặc trưng riêng và phong
cách độc đáo của ông.
Ngoài ra, để hoàn thiện và làm sáng rõ các vấn đề đặt ra của đề tài,
chúng tôi còn sử dụng các phương pháp hỗ trợ khác.
5. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Thơ Đồng Đức Bốn trong dòng chảy của thơ Việt Nam đương đại
Chương 2: Một số dạng thức cái tôi trữ tình trong Chim mỏ vàng và hoa cỏ
độc của Đồng Đức Bốn
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện cái tôi trữ tình trong Chim mỏ vàng và hoa
cỏ độc của Đồng Đức Bốn