Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Bình giảng bài thơ Nhớ cảnh Hàm Rồng của Tản Đà
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Đề bài: Bình giảng bài thơ Nhớ cảnh Hàm Rồng của Tản Đà
Bài làm:
Tản Đà (1889 -1939) là một tài năng lớn trên văn đàn Việt Nam đầu thế kỉ XX. Tản Đà là nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà dịch thuật…, trong lĩnh vực nào ông
cũng để lại dấu ấn của ngòi bút tài hoa.“Nhớ cảnh Hàm Rồng” là bài thơ đăng
trên “An Nam tạp chí” vào năm 1933, gồm có 23 câu thơ lục bát. Bài thơ nói
lên nỗi nhớ Hàm Rồng. Bốn câu thơ đầu diễn tả nỗi nhớ “ai xui”. Ở tận Sơn Tây xa cách mà nhớ. “Muốn trông chẳng thấy” mà nhớ. Có đa tình, yêu nhiều, gắn bó lắm mới có
nỗi nhớ da diết ấy: “Ai xui ta nhớ Hàm Rồng, Muốn trông chẳng thấy cho lòng khôn khuây. Từ ta trở lại Sơn Tây
Con đường Nam, Bắc ít ngày vãng lai”. Với giọng thơ nhẹ, man mác, chơi vơi. Hàm Rồng đối với Tản Đà như một tình
nhân xa vắng, như một cố nhân cách biệt để lại bao nỗi nhớ, bao tình thương. Đoạn hai có 12 câu thơ nói lên một cách cụ thể bao nỗi nhớ, bao nỗi ước mong. Hàng loạt hình ảnh gợi tả cảnh Hàm Rồng hiện lên trong tâm trí Tản Đà. Là
màu sơn “đỏ” của cầu, là màu “xanh” của núi (Ngọc Sơn), là chiều “dài” là độ
“sâu” của dòng sông Mã hùng vĩ. Là cảnh nhộn nhịp “buông câu” của những
con thuyền đánh cá. Là hình bóng xe lửa Bắc – Nam, chạy qua chạy lại trên
cầu: “Sơn cầu còn đỏ chưa phai?
Non xanh còn đối, sông dài còn sâu?
Còn thuyền đánh cá buông câu
Còn xe lửa chạy trên cầu như xưa.” Bốn câu hỏi tu từ nối tiếp, kết hợp với các điệp ngữ: “còn đỏ”, “còn đối”, “còn
sâu”, “còn thuyền đánh cá”, “còn xe lửa chạy” đã gợi tả một cách thiết tha, vương vấn bao day dứt, bao băn khoăn trong lòng về cảnh sắc Hàm Rồng mà
biết ngỏ cùng ai. Cảnh Hàm Rồng đã in sâu trong tâm hồn khách giang hồ. Cảnh Hàm Rồng đã trở thành một mảnh tâm hồn của tài tử đa tình. Vì nhớ lắm, thương nhiều nên mới có tâm trạng và nỗi niềm ấy. Thương nhớ đầy vơi, biết hỏi ai, biết nhờ ai, biết “lấy ai” tới xứ Thanh mà
“viếng cảnh”. Thi sĩ tự hỏi mình, trong bao năm tháng xa cách, không biết cảnh
Hàm Rồng “có đợi chờ” để “cùng nhau” tâm sự giãi bày. Hàm Rồng được nhân
hoá như một tình nhân, một cố nhân mang tình sâu nghĩa nặng: “Lấy ai viếng cảnh bây giờ
Mà hay cảnh có đợi chờ cùng nhau!” Chỉ còn biết thổ lộ niềm ước mong của mình, “ước sao” cảnh Hàm Rồng không
biến đổi trong dòng chảy thời gian, trong bể dâu cuộc đời. Sông Mã “cứ còn
sâu”. Núi Ngọc Sơn “còn cứ giữ màu xanh xanh”. Cầu Hàm Rồng “còn cứ như
tranh” bền đẹp mãi mãi. Cuộc sống vẫn nhộn nhịp. Trên cầu, dưới sông, nhịp
sống vẫn cứ náo nức, đầy sức tươi trẻ: “Khung cầu còn cứ như tranh
Hoả xa cứ chạy, bộ hành cứ đi. Xuân sang cỏ cứ xanh rì,