Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Binh giang bai tho canh khuya cua ho chi minh
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Đề bài: Bình giảng bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh
Hướng dẫn
Mùa thu năm 1947, khi chiến dịch Việt Bắc đang diễn ra vô cùng ác liệt, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã viết bài thơ "cảnh khuya" thể hiện cảm hứng yêu nước
mãnh liệt bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Cả bài thơ dào dạt ánh
sáng và âm thanh để lại trong lòng chúng ta ấn tượng vô cùng sâu sắc:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa, Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa. Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ, Chưa ngủ vì lo nổi nước nhà. Cùng với bài thơ: "Cảnh rừng Việt Bắc" (1946), "Đi thuyền trên sông Đáy"
(1949), bài "Cảnh khuya" đã thể hiện tình yêu. nước thiết tha của lãnh tụ Hồ
Chí Minh. Bài thơ "Cảnh khuya" tả cảnh suối rừng chiến khu Việt Bác một
đầm thu đẹp và nói lên nỗi thao thức của Bác Hồ kính yêu. Hai câu thơ tả cảnh khuya núi rừng chiến khu Việt Bắc. Tiếng suối chảy êm
đềm, nghe rất "trong" rì rầm từ xa vọng đến "như tiếng hát xa". Đêm khuya
thanh vắng mới có thể nghe rõ tiếng suối chảy như vậy. Đó là nghệ thuật lấy
động để tả tĩnh, lấy tiếng suối đặc tả đêm chiến khu thiêng liêng, thanh vắng. Ví tiếng suối với tiếng hát là một nét vẽ tinh tế gợi tả núi rừng chiến khu thời
máu lửa mang sức sống và hơi ấm con người: "Tiếng suối trong như tiếng hát xa" Sáu trăm năm về trước, Nguyễn Trãi đã tả suối Côn Sơn: "Côn Sơn suối chảy rì rầm, Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai" Đầu thế kỷ 20, Nguyễn Khuyến có viết: "Cũng có lúc chơi nơi dặm khách, Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo…" Đó là những vần thơ tuyệt bút tả suối trong nền thơ ca dân tộc. Câu thứ 2, Bác Hồ tả trăng chiến khu. Câu thơ có ba nét vẽ: tầng cao là trăng, tầng giữa là cổ thụ, tầng thấp là hoa – hoa rừng. Câu thơ đầy ánh sáng trăng rất
đẹp. Phải là đêm thanh, trăng tròn mới có ánh sáng chan hòa như vậy: "Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa" Chữ "lồng" điệp lại hai lần, đã nhân hóa trăng, cổ thụ và hoà, làm cho vần
thơ dào dạt trữ tình, thi vị. Chữ "lồng" trong câu thơ này gợi nhớ đến vần thơ
cổ cũng tả trăng, hoà:"Hoá giải nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông. Nguyệt hoa hoà nguyệt trùng trùng…"
(Chinh phụ ngâm)
Hai vế tiểu đối: "Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa" tạo nên bức tranh tạo vật
cân xứng, hài hòa, ngôn ngữ thơ trang trọng, điêu luyện. Có thể nói 2 câu đầu
tả cảnh thiên nhiên rất đẹp đầy chất thơ: cảnh khuya trong sáng, lung linh
huyền ảo, thơ nên họa nên nhạc. Thi sĩ với tâm hồn thanh cao đang sống những
giây phút thần tiên giữa cảnh khuya chiến khu Việt Bắc. Hai câu cuối diễn tả tâm tình thi sĩ. Câu 3 gọi là câu chuyển trong bài tứ tuyệt, như cái bản lề, nửa trên là khái quát "cảnh khuya như vẽ" có suối, có trăng, có