Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Biện pháp kích thích hứng thú của trẻ 24- 36 tháng tuổi trong hoạt động với đồ vật tại trường mầm non
PREMIUM
Số trang
148
Kích thước
1.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1336

Biện pháp kích thích hứng thú của trẻ 24- 36 tháng tuổi trong hoạt động với đồ vật tại trường mầm non

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

KHOA GIÁO DỤC MẦM NON

----------

BẢN TÓM TẮT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:

BIỆN PHÁP KÍCH THÍCH HỨNG THÚ CỦA TRẺ

24 - 36 THÁNG TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG VỚI ĐỒ VẬT

TẠI TRƢỜNG MẦM NON

Giảng viên hƣớng dẫn: TS. BÙI VIỆT PHÚ

Sinh viên thực hiện : HOÀNG THỊ PHƢƠNG THẢO

Lớp : 15SMN

Đà Nẵng, 2019

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Ở mỗi lứa tuổi có một hoạt động chủ đạo nhất định,

tạo nên những biến đổi chủ yếu nhất trong các quá trình

tâm lý. Bước sang tuổi ấu nhi, dưới ảnh hưởng của hoạt

động với đồ vật, ở trẻ đã xuất hiện những biến đổi về chất

quan trọng, gây nên những nét tâm lý mới quyết định đến

sự hình thành và phát triển tâm lý nhân cách của trẻ ấu

nhi, đồng thời tạo tiền đề cho hoạt động vui chơi của trẻ

mẫu giáo.

Trẻ mầm non nói chung và trẻ giai đoạn từ 24 – 36

tháng tuổi nói riêng được coi là giai đoạn quyết định cho

cả đời người. Thông qua hoạt động với đồ vật, ngôn ngữ

của trẻ phát triển mạnh cùng với những dạng hành động tri

giác và những dạng hoạt động tư duy mới đang được hình

thành. Trẻ bắt đầu ý thức mình là một con người riêng

biệt, khác với mọi người xung quanh. Đây là bước ngoặt

quan trọng trong sự phát triển nhân cách của trẻ. Nếu được

giáo dục đúng đắn, kịp thời sẽ tạo động lực cho sự phát

triển tâm lý ở giai đoạn tiếp theo.

Trong hoạt động, hứng thú chính là cơ sở, điều kiện

để chủ thể nỗ lực khám phá, tích cực tìm tòi, bộc lộ và phát

triển những năng lực vốn có của mình. Hứng thú giúp chủ

thể có được khát vọng hoạt động, làm nảy sinh những xúc

cảm tích cực, tăng khả năng chú ý và sức làm việc. Dù có

gặp phải những khó khăn song nếu có hứng thú, con người

vẫn kiên trì và đạt hiệu quả cao.

Vì thế, việc hình thành và phát triển hứng thú cho

trẻ trong hoạt động với đồ vật là một nhiệm vụ vô cùng

cần thiết. Bởi trong suốt thời kỳ này, đứa trẻ luôn hướng

vào thế giới đồ vật, luôn luôn tìm hiểu, khám phá khi gặp

2

bất kỳ đồ vật nào xung quanh. Đó là những hành vi tích

cực giúp cho sự phát triển tâm lý của trẻ.

Tuy nhiên, do khả năng chú ý của trẻ còn kém, hay

bị xao lãng, mất tập trung bởi các tác động bên ngoài nên

hứng thú của trẻ thường không kéo dài. Hiện nay, ở trường

mầm non các giáo viên đã hiểu được tầm quan trọng của

việc tạo hứng thú cho trẻ. Thế nhưng thực tế nó vẫn chưa

đạt được hiệu quả nhất định. Họ đã biết cách để tạo được

hứng thú cho trẻ nhưng họ chưa biết cách nghĩ ra những

tình huống mới, hấp dẫn trẻ mà thường đi theo hướng

khác.

Cho đến nay, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng vẫn

chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào về vấn đề này.

Chính vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài

“Biện pháp kích thích hứng thú của trẻ 24- 36 tháng tuổi

trong hoạt động với đồ vật tại trường mầm non” làm đề

tài nghiên cứu của mình.

2. Mục đích nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu nhằm đề xuất 1 số biện pháp

kích thích, nâng cao hứng thú cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi

trong hoạt động với đồ vật, góp phần nâng cao chất lượng

tổ chức hoạt động đó ở trường mầm non.

3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu

Quá trình tổ chức hoạt động với đồ vật cho trẻ 24 –

36 tháng tuổi ở trường mầm non.

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Biện pháp kích thích hứng thú cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi

trong hoạt động với đồ vật.

4. Giả thuyết khoa học

Đề tài đã đề xuất được 1 số biện pháp. Nếu trong

quá trình tổ chức hoạt động với đồ vật mà giáo viên biết

3

vận dụng những biện pháp này thì sẽ nâng cao được hứng

thú của trẻ trong hoạt động này ở trường mầm non Hoa

Ban nói riêng cũng như các trường mầm non nói chung.

5. Phạm vi nghiên cứu

5.1. Phạm vi về không gian

Trường mầm non Hoa Ban, Thành phố Đà Nẵng

5.2. Phạm vi về thời gian

Từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 1 năm 2019

5.3. Phạm vi về độ tuổi

Trẻ 24-36 tháng tuổi

5.4. Phạm vi về nội dung

Trong khuôn khổ của đề tài này, chúng tôi

chỉ nghiên cứu một số biện pháp kích thích nâng cao hứng

thú cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi trong hoạt động tự do với đồ

vật ở trường mầm non Hoa Ban thuộc quận Hải Châu

thành phố Đà Nẵng.

6. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Xây dựng cơ sở lý luận của biện pháp kích thích

nâng cao hứng thú cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi trong hoạt

động với đồ vật ở trường mầm non.

- Điều tra thực trạng biện pháp kích thích nâng cao

hứng thú cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi trong hoạt động với đồ

vật ở trường mầm non Hoa Ban thuộc quận Hải Châu

thành phố Đà Nẵng.

- Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp kích

thích nâng cao hứng thú cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi trong

hoạt động với đồ vật ở trường mầm non.

4

7. Phƣơng pháp nghiên cứu

7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

Thu thập nghiên cứu phân tích, tổng hợp, khái quát

những tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu. Cụ thể hóa

lý thuyết nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.

7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.1. Phương pháp quan sát

Sử dụng phương pháp quan sát kết hợp theo dõi,

ghi chép, chụp ảnh, quay băng hình những biểu hiện hứng

thú của trẻ cũng như biện pháp tổ chức hoạt động với đồ

vật của giáo viên ở trường mầm non Hoa Ban. Cụ thể:

- Tiến hành dự giờ tổ chức hoạt động tự do với đồ

vật của giáo viên ở một số lớp nhà trẻ tại trường.

- Ghi chép, chụp ảnh và quay băng hình các biểu

hiện hứng thú của trẻ và các biện pháp mà giáo viên đã sử

dụng.

- Xử lý các thông tin thu được.

7.2.2. Phương pháp điều tra viết

Sử dụng phiếu điều tra đối với giáo viên mầm non

nhằm thu thập các thông tin cần thiết liên quan đến đề tài

nghiên cứu.

Mẫu phiếu điều tra được trình bày trong phụ lục.

7.2.3. Phương pháp đàm thoại

Trao đổi với trẻ, với phụ huynh và giáo viên mầm

non để tìm hiểu, làm sáng tỏ các thông tin liên quan đến

đề tài nghiên cứu.

7.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm

Sử dụng phương pháp thực nghiệm nhằm kiểm

chứng hiệu quả của các biện pháp đề xuất và đối chiếu với

giả thuyết khoa học đề xuất.

5

7.3. Phương pháp thống kê toán học

Sử dụng phần mềm MS Excel để xử lý các số liệu đã

thu thập được.

8. Cấu trúc đề tài

Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài

liệu tham khảo, phần phụ lục, nội dung chính của đề tài

gồm ba chương:

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về hứng thú của trẻ 24 –

36 tháng tuổi trong hoạt động với đồ vật ở trường mầm

non

Chƣơng 2: Thực trạng hứng thú của trẻ 24 – 36

tháng tuổi trong hoạt động với đồ vật ở trường mầm non

Hoa Ban quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Chƣơng 3: Biện pháp kích thích hứng thú của trẻ

24 – 36 tháng tuổi trong hoạt động với đồ vật ở trường

mầm non

6

PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỨNG THÚ CỦA TRẺ 24-36

THÁNG TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG VỚI ĐỒ VẬT

Ở TRƢỜNG MẦM NON

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài

Năm 1944 tác giả A.F.Bêliep tiến hành thành công

luận án tiến sĩ “Tâm lý học hứng thú” nội dung cơ bản của

luận án là những vấn đề lý luận tổng quát về hứng thú

trong tâm lý học.

Ovide Decroly (1871 – 1932) - bác sĩ và nhà tâm lý

người Bỉ khi nghiên cứu về khả năng tập đọc và tập làm

tính của trẻ đã xây dựng học thuyết về những trung tâm

hứng thú và về lao động tích cực.

Năm 1955, A.P.Ackhadop có công trình nghiên

cứu về sự phụ thuộc của tri thức học viên với hứng thú

học tập. Kết quả cho thấy tri thức của học viên có mối

quan hệ khăng khít với hứng thú học tập. Trong đó sự hiểu

biết nhất định về môn học được xem là một tiền đề cho sự

hình thành hứng thú đối với môn học.

Năm 1979, nhà tâm lý học Pháp J.B.Dupont có tác

phẩm “Tâm lý học hứng thú”. Trong đó, tác giả thể hiện

hướng nghiên cứu hứng thú như một khuynh hướng, một

nguyện vọng, một xu hướng.

I.K. Strong đã nghiên cứu “Sự thay đổi hứng thú

cùng với lứa tuổi”. Từ những năm 1931, ông đã đưa ra

quan điểm và phương pháp nghiên cứu hứng thú bằng

bảng câu hỏi.

1.1.2. Các nghiên cứu trong nước

7

Tại Việt Nam cũng có nhiều công trình nghiên cứu

về hứng thú cụ thể như sau:

Năm 1972, tác giả Nguyễn Hải Khoát có công trình

nghiên cứu “Hứng thú học tập các bộ môn của học sinh”.

Năm năm sau, Phạm Huy Thụ trong Luận văn “Hiện trạng

hứng thú học tập các môn học của học sinh cấp 2 một số

trường tiên tiến” đã điều tra hứng thú học tập các môn của

3 trường tiên tiến và đề xuất các biện pháp giáo dục nhằm

nâng cao hứng thú học tập cho học sinh.

Ngoài những công trình nghiên cứu về hứng thú

của học sinh hay hứng thú của người lớn trong công việc

thì còn có những công trình nghiên cứu về hứng thú của

trẻ em như :

Có khá nhiều luận văn thạc sĩ nghiên cứu về hứng

thú của trẻ mầm non. Cụ thể: năm 1998, Đặng Thị Sáu

với đề tài “Một số biện pháp gây hứng thú đối với trò chơi

dân gian cho trẻ mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi. Tác giả Đỗ Thị

Mỹ Đình đã từng nghiên cứu “Một số thủ thuật kích thích

hứng thú học tập của trẻ đối với loại tiết học làm quen với

thực vật ở lớp mẫu giáo lớn”. Hoàng Thị Hoài với nghiên

cứu “Tìm hiểu một vài thủ thuật nhằm kích thích hứng thú

học tập của trẻ 5 – 6 tuổi trong tiết học làm quen với môi

trường xung quanh”.

Năm 2004, TS Hoàng Thị Oanh đã khảo sát mức

độ hứng thú của trẻ đối với từng loại trò chơi (vận động,

học tập, …) trong đề tài “Tìm hiểu thực trạng hứng thú

với hoạt động chơi của trẻ lứa tuổi mẫu giáo lớn”. Tạ Thị

Huyền với đề tài “Một số biện pháp nâng cao hứng thú

cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi trong hoạt động tạo hình”.

Năm 2007, Trần Thị Hồng Minh với đề tài “Nghiên

cứu hứng thú của trẻ 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động làm

quen với môi trường xung quanh”.

8

1.2. Các khái niệm chính của đề tài

1.2.1. Khái niệm hứng thú

Có rất nhiều cách định nghĩa hứng thú theo các

khuynh hướng khác nhau. Cho đến nay khó có thể có một

khái niệm duy nhất, chung về hứng thú.

Qua tìm hiểu và dựa trên một số quan niệm trên về

hứng thú, tôi sử dụng định nghĩa của nhóm tác giả Nguyễn

Quang Uẩn, Nguyễn Văn Luỹ, Đinh Văn Vang về hứng

thú như sau: “Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân

đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc

sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân

trong quá trình hoạt động”.

1.2.2. Kích thích

Theo từ điển bách khoa toàn thư, kích thích là sự

nâng cao mức năng lượng so với một trạng thái năng

lượng cơ bản tùy ý. Trong vật lý có một định nghĩa kỹ

thuật cụ thể cho mức năng lượng mà thường được gắn với

một nguyên tử được nâng lên trạng thái kích thích. Hiểu

một cách khoa học, kích thích là tác động vào giác quan

hoặc hệ thần kinh có tác dụng thúc đẩy, làm cho hoạt động

mạnh hơn.

1.2.3. Hoạt động với đồ vật

Hoạt động với đồ vật là hoạt động của trẻ với thế

giới đồ vật xung quanh nhằm tìm hiểu, khám phá những

đặc tính của đồ vật và các chức năng cũng như công dụng

của chúng đồng thời cùng một lúc trẻ nắm được phương

thức sử dụng đồ vật theo kiểu Người.

1.2.4. Kích thích hứng thú của trẻ trong hoạt động với

đồ vật

Dựa vào các khái niệm trên, ta có thể rút ra rằng

kích thích hứng thú của trẻ trong hoạt động với đồ vật là tác

9

động vào giác quan hoặc hệ thần kinh để thúc đẩy, làm cho

quá trình hoạt động với đồ vật của trẻ diễn ra hiệu quả hơn.

1.3. Lý luận về hứng thú của trẻ mầm non

1.3.1. Ý nghĩa của hứng thú đối với con người

Hứng thú có ý nghĩa quan trọng đối với con người

nói chung và đối với trẻ em nói riêng. Nó làm nảy sinh

khát vọng được hoạt động. Đồng thời, nó là động lực thúc

đẩy con người say mê hoạt động, hoạt động một cách sáng

tạo, làm tăng sức lực làm việc và hiệu quả của hoạt động.

Hứng thú có vai trò thúc đẩy, nâng cao quá trình

nhận thức của con người. A.P.Uxôva đã nhấn mạnh vai trò

của hứng thú trong quá trình dạy học như sau: trẻ chỉ có

thể nhận thức được một cách có hệ thống các kiến thức,

kỹ năng khi mà giờ học làm cho các em hứng thú và gây

ra xúc cảm tích cực.

Đối với trẻ mầm non, hứng thú giúp các em tham

gia hoạt động cách tự giác, tích cực và thoải mái hơn. Nhờ

có hứng thú các em còn phát huy được tính sáng tạo của

mình trong quá trình tìm hiểu khám phá, tham gia các hoạt

động.

Ngoài ra, hứng thú còn giúp cho việc tự giáo dục

trở nên dễ dàng và đạt hiệu quả hơn. Đặc biệt đối với trẻ

mầm non, thông qua việc hình thành và phát triển hứng

thú cho trẻ, trẻ sẽ được tự mình trải nghiệm, thực hành,

khám phá thế giới đồ vật xung quanh. Qua đó, nhân cách

trẻ dần dần được hình thành, làm nền tảng cho sự phát

triển toàn diện của trẻ.

1.3.2. Cấu trúc của hứng thú

Tôi cho rằng, hứng thú là sự kết hợp của ba thành

tố: xúc cảm, nhận thức và hoạt động. Trước hết, hứng thú

là thái độ, tình cảm đặc biệt của chủ thể dành cho đối

tượng. Cũng giống như M.G.Marozova tôi cho rằng, xúc

10

cảm với đối tượng là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất

trong cấu trúc của hứng thú. Đó là sự thích thú với đối

tượng và làm nảy sinh ham muốn được hoạt động chiếm

lĩnh đối tượng. Đó là thái độ, cái nhìn đầu tiên của chủ thể

với đối tượng. Tuy nhiên, những cảm xúc đó phải là “cảm

xúc tích cực, bền vững của cá nhân với đối tượng mới có

thể trở thành một dấu hiệu không thể thiếu được, một mặt

của hứng thú” [1,227].

Bất kỳ hứng thú nào cũng đều bao hàm khía cạnh

nhận thức. Không có nhận thức thì không có hứng thú.

Khi bản thân trẻ thích thú với một đối tượng, chúng sẽ

mong muốn được tìm hiểu,khám phá và tìm cách để được

hoạt động với đối tượng đó. Càng nhận thức sâu sắc, tỉ mỉ

về đối tượng và được trực tiếp trải nghiệm bao nhiêu thì

hứng thú càng bền vững bấy nhiêu.

1.3.3. Phân loại hứng thú

Có rất nhiều cách phân loại hứng thú theo các chiều

hướng khác nhau:

Từ điển tâm lý phân chia hứng thú thành 2 loại là

hứng thú trực tiếp – hứng thú do tính chất lôi cuốn của đối

tượng tạo nên và hứng thú gián tiếp đối với đối tượng và

công cụ để đạt được mục đích hoạt động.

Chúng ta cũng có thể phân loại theo các mức độ

của hứng thú:

Nếu xét theo bề rộng chúng ta có thẻ chia làm

hai loại: hứng thú rộng – là hứng thú đối với nhiều lĩnh

vực khác nhau nhưng không sâu; hứng thú hẹp – là hứng

thú đi sâu vào một hoặc một vài lĩnh vực nhất định.

Xét độ sâu của hứng thú, cũng có 2 loại: hứng thú sâu

– là hứng thú đối với bản chất, các mối liên hệ của các sự

vật, hiện tượng và được biểu hiện ở sự chủ động, tích cực

trong hoạt động; hứng thú nông – là hứng thú không đi sâu

11

vào cái bản chất của các đối tượng, biểu hiện ở sự không tích

cực, không sáng tạo, hoạt động mang tính chất đơn điệu.

Ngoài ra chúng ta còn có thể phân loại hứng thú

theo độ bền vững thành 2 loại là hứng thú bền vững – là

loại hứng thú tồn tại trong thời gian dài và không bị phụ

thuộc vào các điều kiện khách quan và loại hứng thú

không bền vững – là loại hứng thú tồn tại trong thời gian

ngắn và chịu sự chi phối của các tác động bên ngoài. Hay

theo mức độ hiệu lực, là hứng thú tích cực – là hứng thú

gây ra một phản ứng tích cực nào đó dẫn đến hành động

chiếm lĩnh đối tượng và hứng thú thụ động – là hứng thú

có tính chiêm ngưỡng, dừng lại ở hứng thú ngắm nhìn

(thể thao, âm nhạc…).

1.3.4. Đặc điểm hứng thú của trẻ 24 – 36 tháng tuổi

Các nghiên cứu đã cho thấy, hứng thú của trẻ 24 –

36 tháng tuổi có một số những đặc điểm sau:

Thứ nhất, hứng thú của trẻ mầm non nói chung và

của trẻ ấu nhi nói riêng xuất hiện nhanh chóng và cũng

không kéo dài lâu. Trẻ dễ bị phân tán, dao động, sự di

chuyển chú ý từ đối tượng này sang đối tượng khác không

rõ nguyên nhân. Trẻ chưa điều khiển được chú ý của

mình. Tính không chủ định cao nếu đồ vật thiếu hấp dẫn

và các kích thích tác động không đủ mới lạ và đủ mạnh.

Trẻ chưa có khả năng di chuyển chú ý theo ý muốn và

chưa làm chủ được chú ý của mình.

Do đó, hứng thú của trẻ trong độ tuổi này thường

không kéo dài, trẻ dễ bị phân tán và mất tập trung nếu xuất

hiện các kích thích phản diện – các kích thích gây mất

hứng thú ở trẻ trong hoạt động.

Thứ hai, tính hấp dẫn bên ngoài của đối tượng (màu

sắc, hình dáng, chất liệu, âm thanh, chuyển động…) là yếu

tố gây nên hứng thú ban đầu cho trẻ.

12

Trẻ ấu nhi thường hứng thú bởi quá trình hoạt động

với đồ vật. Trẻ thường hứng thú với một đối tượng nào đó

khi đối tượng đó gây kích thích mạnh, gây sự ngạc nhiên.

Hứng thú của trẻ ấu nhi còn phụ thuộc vào đặc

điểm khí chất của từng trẻ. Khí chất là cách thức đặc trưng

mà trẻ nhận thức thế giới xung quanh và tồn tại trong thế

giới đó. Nó có cơ sở sinh lý là các kiểu hình thần kinh,

quy định nhịp độ, tốc độ của các hoạt động tâm lý. Khí

chất chính là nguyên nhân gây ra sự khác biệt rõ rệt trong

những đặc điểm bên ngoài của hành vi con người.

Hứng thú của trẻ nhỏ còn phụ thuộc vào thái độ,

cách hướng dẫn, gợi ý của người lớn. Lúc này, người lớn

đóng vai trò là người tổ chức mối quan hệ giữa trẻ với thế

giới đồ vật như đưa đồ chơi đến cho trẻ, chỉ cho trẻ những

điểm thú vị mà đồ vật đó mang lại, hướng dẫn trẻ cách

chơi…

1.4. Lý luận về hoạt động với đồ vật của trẻ 24 – 36

tháng tuổi

1.4.1.Ý nghĩa của hoạt động với đồ vật đối với sự

phát triển của trẻ

Hoạt động với đồ vật đóng vai trò là hoạt động chủ

đạo của trẻ ấu nhi. Hoạt động với đồ vật chi phối toàn bộ

đời sống của trẻ, gây ra những biến đổi về chất, tạo nên

những nét tâm lý mới có ảnh hưởng quyết định đến sự

hình thành và phát triển tâm lý nhân cách của trẻ ấu nhi.

Hoạt động với đồ vật còn được sử dụng là phương tiện

giáo dục và phát triển trẻ lứa tuổi ấu nhi. Hoạt động với đồ

vật giúp phát triển nhận thức cho trẻ ấu nhi. Hoạt động với

đồ vật còn là phương tiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

Thông qua hoạt động này, ngôn ngữ của trẻ phát triển rất

nhanh theo 2 hướng: nghe hiểu lời nói và hình thành ngôn

ngữ (nói) tích cực của trẻ. Ngoài ra, hoạt động với đồ vật

13

còn giúp trẻ biết cách bảo quản, giữ gìn các đồ vật, nắm

được các quy tắc ứng xử với đồ vật trong cuộc sống sinh

hoạt hằng ngày.

1.4.2. Quá trình trẻ hoạt động với đồ vật

Theo nhà tâm lý học nổi tiếng Đ.B.Elcônhin, hoạt

động với đồ vật của trẻ trải qua các giai đoạn sau:

Giai đoạn thứ nhất: Trẻ thực hiện hoạt động với đồ

vật cùng người lớn

Giai đoạn thứ hai, trẻ tự thực hiện những công

đoạn còn lại của hành động và kết thúc hành động, khi trẻ

đã nắm được kỹ năng hành động với đồ vật.

Giai đoạn thứ ba, trẻ tự thực hiện hành động theo

sự hướng dẫn của người lớn. Lúc này trẻ tự ngồi vào bàn

ăn, người lớn làm mẫu các thao tác hành động, còn trẻ tự

thực hiện các thao tác hành động theo mẫu.

Giai đoạn thứ tư, khi trẻ tự thực hiện toàn bộ các

thao tác hành động một mình, người lớn chỉ dẫn cho trẻ

từng bước của hành động.

1.4.3. Nội dung hoạt động với đồ vật cho trẻ 24-36

tháng tuổi ở trường mầm non

Đối với trẻ ấu nhi, nội dung hoạt động với đồ vật

được tiến hành theo các chủ đề gần gũi như chủ đề bản

thân, gia đình, thế giới thực vật, thế giới động vật, nghề

nghiệp… Một số nội dung hoạt động với đồ vật chủ yếu

của trẻ ấu nhi bao gồm:

+ Trò chơi thao tác với đồ vật, đồ chơi bao gồm

một số nội dung như:

 Xếp hình:

 Nhận biết, phân biệt: Hình dạng: tròn, vuông;

màu sắc: xanh, đỏ, vàng; kích thước: to, nhỏ.

 Xâu hạt: xâu hạt thành chuỗi; xâu hạt thành

chuỗi theo mẫu

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!