Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng - nghiên cứu so sánh giữa pháp luật liên minh Châu Âu và Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
ĐẠI HỌC LUND
KHOA LUẬT
TRƢỜNG ĐH LUẬT
TP. HỒ CHÍ MINH
PHAN NGỌC TÂM
BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG
NGHIÊN CỨU SO SÁNH GIỮA PHÁP LUẬT
LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ VIỆT NAM
– So sánh
: 62.38.60.01
Giáo sƣ hƣớng dẫn: GS. TS. Hans-Henrik Lidgard
PGS. TS. Mai Hồng Quỳ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
2
LỜI TỰA
Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, nhãn hiệu đang ngày càng trở thành một
loại tài sản quan trọng không chỉ đối với các doanh nghiệp mà còn đối với cả các
quốc gia. Sự đóng góp của nhiều nhãn hiệu nổi tiếng nhƣ COCA-COLA, IBM,
NOKIA, HONDA… vào nền kinh tế của các quốc gia là rất to lớn và đáng ghi
nhận. Tuy nhiên, cơ chế pháp lý bảo hộ đối với nhãn hiệu có vẻ nhƣ vẫn chƣa
bắt kịp với nhu cầu thực tiễn. Các nguyên tắc truyền thống của pháp luật nhãn
hiệu đang bị thách thức bởi những điều kiện hiện đại của nền kinh tế thế giới.
Đặc biệt trong lĩnh vực nhãn hiệu nổi tiếng, sự bảo hộ không chỉ dựa trên pháp
luật quốc gia mà còn dựa trên các nền tảng pháp lý quốc tế. Những nỗ lực mang
tính quốc tế trong thời gian qua nhằm xây dựng một thiết chế toàn cầu về bảo hộ
nhãn hiệu nổi tiếng đƣợc thể hiện bởi nhiều điều ƣớc quốc tế đƣợc ký kết giữa
các quốc gia. Những điều ƣớc và văn kiện pháp lý quốc tế đó đã thiết lập nên
những nền tảng pháp lý quốc tế quan trọng và mang tính chuẩn mực cho việc
bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trên phạm vi toàn cầu.
Từ góc độ lý luận, nhãn hiệu nổi tiếng và việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
đang trở thành một trong những đề tài quan trọng thu hút nhiều sự quan tâm đặc
biệt của các học giả trên thế giới. Có nhiều sách và công trình nghiên cứu đƣợc
thực hiện liên quan đến vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở cả góc độ lý luận lẫn
thực tiễn lập pháp. Tuy nhiên, ở Việt Nam cũng nhƣ nhiều quốc gia đang phát
triển khác, những vấn đề pháp lý liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng vẫn
chƣa nhận đƣợc sự quan tâm đúng mức dù rằng đã có một số học giả và luật sƣ
tiếp cận một cách khái quát đến vấn đề này thông qua các công trình khoa học
hay các bài viết. Đó chính là lý do mà tác giả đã chọn đề tài bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng làm công trình nghiên cứu cho Luận án Tiến sĩ của mình.
Cần phải khẳng định rằng Luận án này không phải là công trình nghiên cứu
đầu tiên, nhƣng tác giả tin tƣởng một cách mạnh mẽ rằng đây sẽ là một sự đóng
góp to lớn cho hệ thống lý luận về nhãn hiệu nói chung và bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng nói riêng. Công trình nghiên cứu này tập trung giải quyết hai nhiệm vụ cơ
bản. Một là nghiên cứu một cách hệ thống cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trên
phạm vi toàn cầu (thông qua một số điều ƣớc quốc tế quan trọng) trƣớc khi đi
vào tìm hiểu cụ thể hệ thống pháp luật của Liên Minh Châu Âu và Việt Nam.
3
Hai là, dựa trên kết quả nghiên cứu so sánh hai hệ thống pháp luật cụ thể này,
Luận án sẽ đƣa ra một số giải pháp phù hợp cho việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng cũng nhƣ hoàn thiện hiệu quả thực
thi của hệ thống pháp luật về nhãn hiệu nói chung.
Luận án là kết quả của chƣơng trình nghiên cứu sinh hơn bốn năm mà tác giả
đã tham gia bắt đầu từ năm 2007 đến giữa năm 2011 tại Khoa Luật – Đại học
Lund – Thụy Điển và Trƣờng Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Để có thể
hoàn thành đƣợc Luận án này, ngoài những nỗ lực và cố gắng của tác giả, không
thể không kể đến những sự hƣớng dẫn, hỗ trợ, đóng góp, giúp đỡ quan trọng từ
các cá nhân và tổ chức khác nhau.
Trƣớc hết, tác giả muốn thể hiện lòng biết ơn chân thành và to lớn đến Giáo
sƣ Hans-Henrik Lidgard và Phó Giáo sƣ Mai Hồng Quỳ với tƣ cách không chỉ là
những giáo sƣ hƣớng dẫn khoa học tận tâm và nhiệt tình của tác giả trong suốt
chƣơng trình nghiên cứu sinh mà còn là những ngƣời Thầy lớn nhất và đặc biệt
nhất trong suốt cuộc đời của tác giả. Tác giả đã rất may mắn đƣợc làm việc và
học tập với những vị Giáo sƣ đáng kính nhƣ thế trong suốt thời gian qua. Các
Giáo sƣ đã dành nhiều thời gian để đọc, thảo luận, đánh giá và góp ý rất nhiều
cho Luận án của tác giả. Những nhận xét của các Giáo sƣ luôn xác đáng, tinh tế
và rất bổ ích cho tác giả trong việc hoàn thiện nội dung Luận án của mình. Ngoài
ra, các Giáo sƣ cũng chân thành chia sẻ nhiều kinh nghiệm quý báu trong cuộc
sống nhƣ làm thế nào để xác định giá trị đích thực của cuộc sống cũng nhƣ cách
thức cân bằng giữa công việc và gia đình. Những lời động viên chân thành và
đầy nhiệt huyết của các Giáo sƣ chính là một trong những động lực quan trọng
giúp tác giả tiếp tục vững bƣớc trên con đƣờng nghiên cứu khoa học trong tƣơng
lai.
Thứ hai, tác giả muốn gửi lời cám ơn đến các giáo sƣ, nhân viên thƣ viện,
nhân viên hành chính và những ngƣời bạn của Khoa Luật, Đại học Lund, Thụy
Điển vì những sự hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ quý báu và chân tình của họ trong suốt
thời gian tác giả làm việc và nghiên cứu ở Lund. Không có những sự giúp đỡ to
lớn đó, tác giả khó có thể hoàn thành đƣợc chƣơng trình nghiên cứu của mình
một cách thành công. Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cám ơn đến Giáo sƣ Christina
Moell, Giáo sƣ Per-Ole Traskman, Giáo sƣ Bengt Lundell, Giáo sƣ Lars Goran
Malmberg, Giáo sƣ Michael Bogdan, Giáo sƣ Christian Hathen, Thủ thƣ
4
Catarina Carlsson và Anna Wiberg. Đồng thời, tác giả cũng rất biết ơn các Thầy,
Cô và các đồng nghiệp của Trƣờng Đại học Luật TP. HCM (đặc biệt là Khoa
Luật Quốc tế) và Trƣờng Đại học Luật Hà Nội là những ngƣời đã đồng hành, hỗ
trợ, tạo điều kiện và giúp đỡ tác giả rất nhiều trong suốt thời gian tác giả tham
gia chƣơng trình nghiên cứu sinh. Tác giả đặc biệt gửi lời cám ơn chân thành đến
Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Lâm, Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Ngọc (Trƣờng Đại học
Luật TP. HCM) và Giáo sƣ Lê Minh Tâm, Giáo sƣ Lê Thị Sơn (Trƣờng Đại học
Luật Hà Nội).
Tác giả đã rất may mắn đƣợc tham gia và trở thành một trong những ngƣời
thụ hƣởng trực tiếp của Dự án “Tăng cƣờng công tác đào tạo Luật tại Việt Nam”
do Quỹ phát triển Quốc tế Thụy Điển (SIDA) tài trợ. Nói một cách cụ thể hơn,
Dự án đã mang lại cho tác giả cơ hội quý báu để đƣợc tham gia vào Chƣơng
trình đào tạo Thạc sĩ hợp tác Việt Nam – Thụy Điển (từ năm 2001 đến năm
2004) và sau đó là Chƣơng trình đào tạo Tiến sĩ hợp tác Việt Nam – Thụy Điển
(từ năm 2007 đến năm 2011). Qua Dự án này, tác giả đã đƣợc trải nghiệm nhiều
kiến thức quý báu từ nhiều hệ thống giáo dục trên thế giới, đƣợc tiếp cận và
nghiên cứu nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, và quan trọng hơn hết là tác giả
đã phát triển một cách cơ bản tƣ duy học thuật và nghiên cứu khoa học thông
qua việc tiếp thu những nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khoa học hiện đại và
hiệu quả đang đƣợc sử dụng phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới. Do vậy,
tác giả xin đƣợc gửi lời tri ân chân thành đến tất cả các thành viên Ban giám đốc
Dự án SIDA – Việt Nam, các điều phối viên, cộng tác viên và những cá nhân
khác đã hỗ trợ, giúp đỡ tác giả rất nhiều trong suốt chặng đƣờng đã qua.
Lời cám ơn tiếp theo tác giả xin đƣợc trân trọng gửi đến các giáo sƣ, những
nhân viên hành chính, nhân viên thƣ viện và những ngƣời bạn ở những nơi mà
tác giả đã có dịp đến thăm và thực hiện các đợt nghiên cứu ngắn hạn trong suốt
chƣơng trình nghiên cứu sinh của mình. Tác giả đặc biệt cám ơn Giáo sƣ
Stephen C. Hicks, Giáo sƣ Bernard M. Ortwein và Luật sƣ Jonathan D.
Messinger tại Trƣờng Luật, Đại học Suffolk thuộc Thành phố Boston, Tiểu Bang
Massachusetts, Hoa Kỳ; Tiến sĩ Kongolo Tshimanga và Cô Gabriela Treso tại
Tổ chức Sở Hữu Trí Tuệ Thế giới (WIPO), Geneva, Thụy Sĩ và Cô Andrea
Wechsler tại Viện Nghiên cứu Max Planck về SHTT, Luật Cạnh tranh và Luật
Thuế tại Munich, Cộng Hòa Liên bang Đức. Tác giả cũng rất cảm kích sự giúp
đỡ của các ông Robert Schwartz và Phillip Horowitz không chỉ trong việc dành
5
ra rất nhiều thời gian cho việc đọc và chỉnh sửa ngôn ngữ cho các bản thảo Luận
án bằng tiếng Anh mà còn đối với những nhận xét, góp ý quý báu đối với nội
dung của Luận án.
Cuối cùng, tác giả xin đƣợc dành lời cám ơn quan trọng nhất và to lớn nhất
cho gia đình, ngƣời thân, đặc biệt là vợ và con gái, là những ngƣời đã luôn đồng
hành, động viên, giúp đỡ và là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất cho tác giả
trong suốt thời gian nghiên cứu vừa qua cũng nhƣ trong cả cuộc đời của tác giả.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2011
PHAN NGỌC TÂM
6
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan rằng cuốn sách “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng – Nghiên
cứu so sánh giữa pháp luật Liên Minh Châu Âu và Việt Nam” là công trình
nghiên cứu độc lập và nghiêm túc của cá nhân tác giả. Tất cả các tài liệu và
thông tin đƣợc sử dụng trong cuốn sách này đã đƣợc chú thích và trích dẫn đầy
đủ.
Tác giả luôn chân thành đón nhận mọi ý kiến đóng góp xây dựng của đọc giả
để có thể hoàn thiện công trình của mình một cách tốt nhất.
Mọi thông tin liên lạc xin liên hệ địa chỉ email: [email protected],
hoặc qua email: [email protected].
7
MỤC LỤC
1. CHƢƠNG 1 – LỜI NÓI ĐẦU.................................................. 10
2. CHƢƠNG 2 – CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÃN HIỆU
NỔI TIẾNG ......................................................................................... 32
2.1. TỔNG QUAN VỀ NHÃN HIỆU ............................................ 32
2.1.1. Khái niệm nhãn hiệu ........................................................ 32
2.1.2. Chức năng của nhãn hiệu................................................. 37
2.1.3. Đặc điểm của nhãn hiệu................................................... 44
2.1.4. Nhãn hiệu và các đối tƣợng SHTT khác có liên quan ..... 48
2.2. PHÁP LUẬT VỀ NHÃN HIỆU .............................................. 52
2.2.1. Giới thiệu chung............................................................... 52
2.2.2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về nhãn hiệu ......... 55
2.2.3. Pháp luật về nhãn hiệu và các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan
63
2.3. NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG ...................................................... 66
2.3.1. Cơ sở lý luận .................................................................... 66
2.3.2. Khái niệm về nhãn hiệu nổi tiếng .................................... 71
2.3.3. Đặc điểm của nhãn hiệu nổi tiếng.................................... 78
2.4. NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG TRONG HỆ THỐNG THƢƠNG MẠI TOÀN
CẦU 82
2.4.1. Những tác động của toàn cầu hóa .................................... 82
2.4.2. Những thách thức đối với việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trong bối
cảnh toàn cầu hóa................................................................................. 86
2.5. KẾT LUẬN CHƢƠNG ........................................................... 88
3. CHƢƠNG 3 – PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI
TIẾNG.................................................................................................. 92
3.1. CÁC THIẾT CHẾ PHÁP LÝ QUỐC TẾ................................ 92
3.1.1. Công ƣớc Paris 1883........................................................ 92
3.1.2. Hiệp định TRIPs 1994 ..................................................... 99
3.1.3. Các thiết chế pháp lý khác ............................................. 102
3.2. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU.. 109
3.2.1. Giới thiệu chung về pháp luật nhãn hiệu của Liên minh châu Âu 109
3.2.2. Nhãn hiệu nổi tiếng ở Châu Âu ..................................... 111
3.2.3. Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trong khuôn khổ của Liên minh châu Âu
113
3.3. NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM131
3.3.1. Tổng quan về pháp luật nhãn hiệu Việt Nam ................ 131
3.3.2. Pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng........ 140
3.3.3. Thực thi bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng .............................. 155
3.4. KẾT LUẬN CHƢƠNG ......................................................... 168
8
4. CHƢƠNG 4 – PHÂN TÍCH SO SÁNH GIỮA PHÁP LUẬT
LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU
NỔI TIẾNG ....................................................................................... 171
4.1. VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG................ 172
4.1.1. Định nghĩa...................................................................... 172
4.1.2. Các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng...................... 184
4.1.3. Sự suy thoái của nhãn hiệu nổi tiếng ............................. 205
4.2. CÁC NGUYÊN TẮC PHÁP LÝ VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG
208
4.2.1. Học thuyết về nguy cơ gầy nhầm lẫn............................. 208
4.2.2. Học thuyết về sự lu mờ nhãn hiệu ................................. 213
4.2.3. Nguyên tắc về sự gian dối.............................................. 220
4.3. PHẠM VI BẢO HỘ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG .. 224
4.3.1. Nhãn hiệu chƣa đăng ký ................................................ 224
4.3.2. Hàng hóa và dịch vụ không tƣơng tự............................. 225
4.3.3. Hàng hóa và dịch vụ không cạnh tranh.......................... 226
4.3.4. Thời hạn bảo hộ ............................................................. 227
4.4. KẾT LUẬN CHƢƠNG ......................................................... 228
5. CHƢƠNG 5 – ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ BẢO HỘ NHÃN HIỆU
NỔI TIẾNG Ở VIỆT NAM – MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
232
5.1. NHỮNG THÀNH TỰU ........................................................ 232
5.1.1. Về chính sách và công tác lập pháp ............................... 232
5.1.2. Thực thi hệ thống nhãn hiệu .......................................... 234
5.1.3. Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trên thực tế ......................... 235
5.1.4. Những thành tựu khác.................................................... 236
5.2. NHỮNG HẠN CHẾ .............................................................. 238
5.2.1. Thiếu sự quan tâm đúng mức của Nhà nƣớc ................. 238
5.2.2. Thiếu các quy định cụ thể của pháp luật........................ 239
5.2.3. Sự yếu kém trong hệ thống thực thi............................... 240
5.2.4. Sự hạn chế của ý thức pháp luật và trình độ dân trí của cộng đồng
243
5.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG ................................... 244
5.3.1. Nguyên tắc chung .......................................................... 244
5.3.2. Các kiến nghị cụ thể....................................................... 250
5.4. KẾT LUẬN CHUNG ............................................................ 263
6. PHỤ LỤC................................................................................. 268
9
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ACPA Luật bảo vệ ngƣời tiêu dùng chống đầu cơ tên miền
ACTA Hiệp định thƣơng mại chống hàng giả
BIRPI Văn phòng quốc tế thống nhất về bảo hộ sở hữu trí tuệ
EC Cộng đồng Châu Âu
ECJ Tòa án công lý Châu Âu
EEC Cộng đồng kinh tế Châu Âu
EU Liên Minh Châu Âu
GATS Hiệp định chung về thƣơng mại dịch vụ
GATT Hiệp định chung về thuế quan và thƣơng mại
MFN Đãi ngộ tối huệ quốc
MOST Bộ khoa học và công nghệ (Việt Nam)
NOIP Cục sở hữu trí tuệ (Việt Nam)
NT Đối xử quốc gia
OHIM Cơ quan hài hòa hóa thị trƣờng nội Liên minh Châu Âu
SHTT Sở hữu trí tuệ
TLT Hiệp định luật về nhãn hiệu
TRIPs Hiệp định về các khía cạnh thƣơng mại của quyền sở hữu trí
tuệ
UC Đại học California (Hoa Kỳ)
UK Vƣơng Quốc Anh
US Hoa Kỳ
USPTO Cơ quan sáng chế và nhãn hiệu hoa kỳ
WIPO Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới
WTO Tổ chức thƣơng mại thế giới
10
1. CHƢƠNG 1 – LỜI NÓI ĐẦU
1.1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
Nhãn hiệu, cùng với sáng chế, quyền tác giả và những đối tƣợng khác của
quyền SHTT đang ngày càng nhận đƣợc nhiều sự quan tâm trên bình diện quốc
gia lẫn quốc tế. Trên thực tế, “nhãn hiệu” đã đƣợc sử dụng từ khá sớm trong lịch
sử phát triển của xã hội loài ngƣời, cụ thể là từ thời kỳ Đồ Đá. Quan điểm liên
quan đến lịch sử hình thành và phát triển của nhãn hiệu nổi bật và nhận đƣợc sự
ủng hộ của nhiều học giả trên thế giới đã chỉ ra rằng những hình thức sơ khai của
nhãn hiệu đƣợc sử dụng trên gia súc, cụ thể là những ngƣời nông dân vào thời kỳ
này đã biết sử dụng sắt nung nóng để đánh dấu lên những con vật thuộc sở hữu
của mình. Thực tế này đã đƣợc khắc họa lại trên các họa tiết, các nét vẻ trên các
vách đá hay trên tƣờng ở Ai Cập cổ đại. Một hình thức “đánh dấu” khác cũng
đƣợc sử dụng trên vật nuôi là hình thức cắt tai xuất hiện ở Madagascar.1 Mặc dù
vậy, phải đến những năm 1800, pháp luật về nhãn hiệu mới thật sự đƣợc ban
hành lần đầu tiên ở Anh Quốc và những vụ việc đầu tiên liên quan đến tranh
chấp về nhãn hiệu đƣợc giải quyết tại các Tòa án.2
Sau đó, vấn đề bảo hộ nhãn
hiệu nói riêng và quyền SHTT nói chung đã đƣợc thể chế hóa một cách mạnh mẽ
trong nhiều điều ƣớc quốc tế cũng nhƣ trong pháp luật quốc gia3
. Những sự cố
gắng đó hiển nhiên đã thể hiện đƣợc bƣớc tiến bộ vƣợt bậc trong việc bảo hộ
nhãn hiệu ở từng quốc gia cũng nhƣ trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, vẫn tồn
tại một khía cạnh pháp lý quan trọng của pháp luật về nhãn hiệu chƣa đƣợc đề
cập trong một thời gian khá dài, đó là vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng – những
1
Xem Amir H. Khoury, Ancient and Islamic sources of intellectual property protection in the Middle
East: A focus on trademarks, 43 IDEA 151, 155-156 (2003). Xem thêm, World Intellectual Property
Organization (WIPO), Intellectual Property Reading Materials 191 (WIPO Publication, Geneva 1995).
2
Xem mục 2.1.2 dƣới đây.
3 Xem Công ƣớc Paris về bảo hộ quyền SHCN năm 1883, Thỏa ƣớc Madrid về đăng ký quốc tế nhãn
hiệu hàng hóa năm 1891, Hiệp định TRIPs 1994, Thỏa ƣớc Nice về phân loại quốc tế đối với hàng hóa
và dịch vụ năm 1957…
11
nhãn hiệu đƣợc biết đến và sử dụng rộng rãi trên toàn cầu hoặc ít nhất là trong
một quốc gia hay một khu vực địa lý nhất định.4
Rõ ràng là sự thiếu vắng của các quy định pháp luật trong lĩnh vực này đã gây
ra những khó khăn nhất định cho thực tiễn sử dụng và bảo hộ đối với nhiều nhãn
hiệu nổi tiếng. Trong nhiều năm qua đã có không ít những tranh chấp thƣơng
mại quốc tế phát sinh liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng. Việc giải quyết những
tranh chấp này chủ yếu đƣợc thực hiện dựa trên án lệ ở các nƣớc theo truyền
thống Thông luật hay dựa trên các quy định pháp luật liên quan ở các nƣớc theo
truyền thống Dân luật. Điều này vô hình chung đã mang lại nhiều thách thức cho
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của chủ sở hữu nhãn hiệu nổi
tiếng, đồng thời cản trở quá trình hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng cũng nhƣ tăng cƣờng và đảm bảo
tính thống nhất, tính hiệu quả và sự khả thi của hệ thống pháp luật. Chính vì vậy,
việc xây dựng một thiết chế pháp lý mang tính toàn cầu bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của sự phát triển hệ thống
pháp luật về nhãn hiệu trong môi trƣờng pháp lý quốc gia cũng nhƣ quốc tế.
Học thuyết pháp lý quốc tế liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng lần đầu tiên
đƣợc thể chế hóa trong Công ƣớc Paris vào năm 1925. Ngày nay, học thuyết này
trở nên đặc biệt quan trọng trong một thế giới mà các hoạt động tiếp thị và quảng
bá thƣơng mại toàn cầu không ngừng gia tăng. Việc tạo ra một thƣơng hiệu toàn
cầu ngày càng trở nên dễ dàng hơn rất nhiếu thông qua các kênh thông tin mới,
tiết kiệm và có thể tiếp cận từ xa. Trong khi các biên giới và ranh giới chính trị
giữa các quốc gia có vẻ nhƣ đang gây ra không ít những trở ngại cho sự tự do đi
lại của các cá nhân trên toàn cầu thì chúng cũng không thể nào ngăn cản đƣợc
dòng chảy tự do của thông tin.5 Nhƣ vậy, một nhãn hiệu có thể đƣợc đồng thời
chuyển tải đến bất kỳ nơi nào để đến với ngƣời tiêu dùng cũng nhƣ toàn thể công
chúng qua nhiều kênh thông tin hiệu quả và nhanh chóng. Bằng cách đó, một
nhãn hiệu có thể nhanh chóng đƣợc biết đến rộng rãi trên nhiều thị trƣờng trên
thế giới.
4 Khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng lần đầu tiên đƣợc ghi nhận tạị bản sửa đổi năm 1925 của Công ƣớc Paris
5
Frederick Mostert, Famous and Well-known Marks – An international Analysis, (Toronto
Butterworth‟s 1997), trang v.
12
Có thể thấy rằng nhãn hiệu nổi tiếng đã đƣợc công nhận nhƣ là một trong
những hình thức quan trọng nhất của hệ thống nhãn hiệu trong hệ thống pháp
luật quốc gia lẫn trong các Điều ƣớc quốc tế. Cơ chế pháp lý bảo hộ nhãn hiệu
nổi tiếng tiếp tục đƣợc củng cố và phát triển theo thời gian nhờ vào sự nhận thức
về tầm quan trọng của nhãn hiệu nổi tiếng không ngừng gia tăng trên toàn cầu
cũng nhƣ sự phát triển của vai trò của nhãn hiệu nổi tiếng trong hệ thống thƣơng
mại quốc tế. Mặc dù vậy, những vấn đề pháp lý này vẫn còn là những khái niệm
khá mới mẻ ở các quốc gia đang và kém phát triển, trong đó có Việt Nam.
Với xu hƣớng hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, nhiều nhà đầu tƣ nƣớc ngoài
đã, đang và sẽ gia nhập vào thị trƣờng nội địa của Việt Nam cùng với những tài
sản trí tuệ giá trị của họ, bao gồm không ít các nhãn hiệu nổi tiếng. Ngày nay,
chúng ta có thể nhìn thấy nhiều nhãn hiệu nổi tiếng toàn cầu xuất hiện trong các
siêu thị của Việt Nam nhƣ SONY, TOYOTA, COCA-COLA, MICROSOFT,
NOKIA… Những nhãn hiệu này không chỉ đại diện cho tài sản của doanh
nghiệp nƣớc ngoài mà còn trở thành yếu tố quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế
quốc gia nơi chúng đƣợc đầu tƣ. Chẳng hạn, giá trị thƣơng mại của nhãn hiệu
COCA-COLA đƣợc tính toán vào khoảng 33,4 tỉ Đô là Mỹ năm 1993 và lên đến
hơn 70,0 tỉ Đô là Mỹ vào năm 2010 (trở thành thƣơng hiệu có giá trị cao nhất
toàn cầu trong năm)6
. Điều này chứng tỏ rằng giá trị kinh tế của quyền SHTT, và
đặc biệt là nhãn hiệu, đang đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của
mỗi doanh nghiệp cũng nhƣ của nền kinh tế thế giới. Chúng đòi hỏi một cơ chế
bảo hộ khả thi và hiệu quả để đảm bảo một cách tốt nhất các quyền và lợi ích
chính đáng của chủ sở hữu nhãn hiệu và các chủ thể liên quan. Trong khi đó,
nhìn lại thực tế ở Việt Nam, có thể thấy rằng cơ chế bảo hộ và thực thi quyền
SHTT vẫn còn là một bức tranh mờ nhạt. Mặc dù Nhà nƣớc đã có nhiều nỗ lực
trong việc ban hành nhiều văn bản luật và những quy định mới, song hiện tƣợng
xâm phạm hay vi phạm quyền SHTT vẫn tiếp tục là những thách thức to lớn đối
với các cơ quan có thẩm quyền và đối với các chủ thể quyền SHTT. Pháp luật về
nhãn hiệu có vẻ là lĩnh vực chịu thách thức nhiều hơn cả bởi vì ngày càng có
6
Ruth Annand and Helen Norman, Blackstone‟s Guide to the Trade marks Act 1994, (Blackstone Press
Limited 1994), trang 10. Xem thêm: Business Week and Interbrand Special Report on the 100 Top
Brands, 2010. Truy cập tại :
http://www.interbrand.com/en/knowledge/branding-studies.aspx.
13
nhiều tranh chấp và khiếu nại đƣợc đƣa ra trƣớc cơ quan có thẩm quyền liên
quan đến hành vi xâm phạm nhãn hiệu.
Ở Việt Nam, hầu hết mọi ngƣời không có nhiều kiến thức và thông tin liên
quan đến nhãn hiệu nổi tiếng. Chẳng hạn, nhãn hiệu HONDA thƣờng đƣợc
ngƣời dân sử dụng một cách thông dụng để chỉ tất cả các phƣơng tiện xe gắn
máy mà không có sự phân biệt nào đối với các nhãn hiệu mà chúng mang, dù
rằng các nhãn hiệu đó không phải là HONDA và cũng hoàn toàn không giống
nhau. Điều này có vẻ nhƣ là một thực tế phổ biến và nó tồn tại trong một thời
gian khá dài trong xã hội Việt Nam. Và với tình huống xảy ra nhƣ thế, chúng ta
buộc phải trả lời một số câu hỏi quan trọng, ví dụ:
(1) Có bất kỳ sự xâm phạm nào đối với quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu
trong ví dụ liên quan đến nhãn hiệu HONDA này?
(2) Liệu chủ sở hữu nhãn hiệu HONDA có quyền khiếu nại yêu cầu bảo
vệ quyền lợi của họ liên quan đến nhãn hiệu này không?
(3) Làm thế nào để họ có thể bảo vệ đƣợc các quyền lợi chính đáng của
mình tại Việt Nam?
Những câu hỏi này không đơn giản và câu trả lời có đƣợc tùy thuộc vào các
tình huống pháp lý cụ thể. Chẳng hạn, chúng ta có thể sẽ đặt ra vấn đề rằng liệu
HONDA có phải là nhãn hiệu nổi tiếng, rằng có văn bản pháp luật nào liên quan
đến nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam không, và nếu có, thì pháp luật đặt ra những
yêu cầu cụ thể nào trong từng trƣờng hợp?
Cần lƣu ý rằng trên thực tế có một vài sự phân loại không chính thức đối với
nhãn hiệu đƣợc bảo hộ ở Việt Nam dựa trên các quyết định cụ thể của cơ quan
có thẩm quyền, và đồng thời cũng có những quy định riêng biệt trong Luật
SHTT năm 2005 liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng.7
Tuy vậy, những chuẩn mực
pháp lý chung dùng để đánh giá và công nhận nhãn hiệu nổi tiếng vẫn chƣa đƣợc
xác định một cách thống nhất và chính xác. Do vậy, hiện nay khó có thể tìm ra
đƣợc một khái niệm chung về “nhãn hiệu nổi tiếng” ở Việt Nam. Tác giả sẽ quay
trở lại những vấn đề pháp lý liên quan đến nhãn hiệu HONDA sau khi đã nghiên
7 Chẳng hạn, xem Điều 75 – Luật SHTT năm 2005 (bổ sung, sửa đổi năm 2009).
14
cứu và giải quyết một số vấn đề lý luận cơ bản và những phân tích so sánh ở các
phần sau của Luận án.
Cũng nhƣ nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam đã cố gắng tạo ra một
hệ thống những quy định chung về quyền SHTT trong BLDS 19958
và quyền
SHCN trong Nghị định số 63/CP năm 1996,9
nhƣ là những nền tảng pháp lý đầu
tiên của pháp luật Việt Nam liên quan đến mảng SHTT. Chúng cũng có thể đƣợc
coi là nguồn cơ bản của pháp luật nhãn hiệu Việt Nam ở giai đoạn này. BLDS
1995 sau đó đã đƣợc bổ sung, sửa đổi và đƣợc thay thế bởi BLDS 2005.10 Tiếp
theo đó, cuối năm 2005, Việt Nam đã tiếp tục ban hành một văn bản pháp luật
duy nhất và thống nhất điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền SHTT.11
Ngoài ra, những quy định của pháp luật về nhãn hiệu có thể đƣợc tìm thấy ở các
văn bản pháp lý khác đƣợc ban hành bởi các cơ quan có thẩm quyền nhƣ Bộ
Khoa học, Công nghệ và Môi trƣờng, Bộ Công thƣơng, Bộ Tƣ pháp…
Năm 2006, đã có khá nhiều sự kiện trọng đại xảy ra có tác động mạnh mẽ đến
nền kinh tế đất nƣớc cũng nhƣ quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật. Trong đó, sự kiện quan trọng nhất có thể kể đến là quá trình đàm phán gia
nhập vào Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO) của Việt Nam đã thành công tốt
đẹp, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức này. Bên
cạnh đó, một số sự kiện khác cũng đã diễn ra và có ảnh hƣởng mạnh mẽ đến hệ
thống pháp luật về Sở hữu trí tuệ của nƣớc ta, đó là sự kiện Việt Nam chính thức
trở thành thành viên của Nghị định thƣ Madrid vào ngày 11/04/2006 và ngày
11/07/2006 thì Nghị định thƣ đã phát sinh hiệu lực trên lãnh thổ Việt Nam; đó là
sự bắt đầu hiệu lực của một đạo luật đầu tiên về Sở hữu trí tuệ của Việt Nam vào
ngày 01/06/2006.
8 Bộ luật Dân sự số 44-L/CTN đƣợc Quốc hội Khóa IX kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 28/10/1995, có hiệu
lực từ ngày 01/7/1996 và hết hiệu lực từ ngày 01/01/2006.
9 Nghị định số 63/CP của Chính phủ ban hành ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về quyền SHCN, đƣợc
bổ sung, sửa đổi bởi Nghị định số 06/2001/ ND-CP, ban hành ngày 01/02/2001.
10 Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 đƣợc Quốc hội Khóa XI kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/7/2005, có
hiệu lực từ ngày 01/01/2006.
11 Luật SHTT năm 2005 đƣợc Quốc hội Khóa XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực
từ ngày 01/7/2006.
15
Tuy nhiên, những cố gắng kể trên nhìn chung mang tính vĩ mô nhiều hơn mà
chƣa đi vào giải quyết một cách kịp thời và hiệu quả những nhu cầu thực tiễn mà
xã hội đang đặt ra, đặc biệt là đối với việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Mặc dù đã
có khá nhiều các quy định pháp luật cụ thể đƣợc ban hành, song cơ chế đảm bảo
thực thi các quy định đó còn khá hạn chế, hiệu quả của quá trình áp dụng pháp
luật chƣa cao.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Nhƣ đã đề cập ở trên, nhãn hiệu nổi tiếng và những vấn đề pháp lý liên quan
đến việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng chƣa đƣợc giải quyết một cách thỏa đáng ở
Việt Nam. Vì vậy, Luận án này hƣớng đến hai mục đích chính. Thứ nhất, Luận
án sẽ là một đóng góp đáng kể vào hệ thống lý luận về nhãn hiệu nổi tiếng không
những trên phƣơng diện toàn cầu mà, quan trọng hơn, còn tập trung vào hoàn
cảnh thực tế của Việt Nam.12 Điều này nhằm giúp những chủ thể liên quan có thể
nhận biết đƣợc nhãn hiệu nổi tiếng trong thị trƣờng để có thể phân biệt chúng
với các nhãn hiệu thông thƣờng khác. Thứ hai, thông qua sự phân tích và đánh
giá cơ chế pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trong bối cảnh pháp lý quốc tế13
nói chung và trong những hệ thống pháp luật quốc gia cụ thể14 để rút ra những
cách thức phù hợp nhằm củng cố và tăng cƣờng hệ thống pháp luật Việt Nam về
bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Để có thể đạt đƣợc những mục đích nêu trên, Luận
án sẽ phải giải quyết đƣợc những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Một là, Luận án phải giới thiệu đƣợc một cách khái quát những kiến thức lý
luận cơ bản về nhãn hiệu nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng. Điều này sẽ
giúp mang lại câu trả lời cơ bản nhất cho câu hỏi thế nảo là nhãn hiệu nổi tiếng
trong bối cảnh toàn cầu.
Hai là, Luận án sẽ phải thực hiện đƣợc một sự so sánh khá đầy đủ và cơ bản
giữa hai hệ thống pháp luật của Liên minh châu Âu và Việt Nam về vấn đề bảo
hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
12 Nhƣ đƣợc trình bày tại mục 2.2.
13 Nhƣ đƣợc trình bày tại mục 3.1.
14 Nhƣ đƣợc trình bày tại mục 1.3 dƣới đây.