Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Tài liệu đang bị lỗi
File tài liệu này hiện đang bị hỏng, chúng tôi đang cố gắng khắc phục.
Bảo hộ nhãn hiệu âm thanh theo pháp luật sở hữu trí tuệ
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
LÊ NHẬT HỒNG
BẢO HỘ NHÃN HIỆU ÂM THANH
THEO PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
BẢO HỘ NHÃN HIỆU ÂM THANH
THEO PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số chuyên ngành: 8380103
Người hướng dẫn khoa học : TS. NGUYỄN XUÂN QUANG
Học viên : LÊ NHẬT HỒNG
Lớp : 20CHDS_K34_NC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan danh dự Luận văn này là kết quả của quá trình tổng hợp và
nghiên cứu nghiêm túc của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiễn sĩ
Nguyễn Xuân Quang. Nội dung của Luận văn có tham khảo và sử dụng một số thông
tin từ các Bộ luật, Luật, nguồn sách, tạp chí, tài liệu, các trang thông tin điện tử, báo
mạng... được liệt kê trong danh mục tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu trách nhiệm về
nghiên cứu của mình.
Tác giả
Lê Nhật Hồng
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Từ được viết tắt
1 CPTPP Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific
Partnership)
2 WIPO Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (World Intellectual Property
Organization)
3 USPTO Cơ quan cấp bằng sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ (United States
Patent and Trademark Office)
4 TTAB Hội đồng xét xử kháng cáo nhãn hiệu Hoa Kỳ (Trademark Trial
and Appeal Board)
5 Luật SHTT Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi bổ sung bởi luật số
36/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009, Luật số
2/2019/QH14 ngày 14 tháng 6 năm 2019 và Luật số
07/2022/QH15 ngày 16 tháng 6 năm 2022.
6 TMEP Sổ tay hướng dẫn nhãn hiệu về quy trình kiểm tra (Trademark
Manual of Examining Procedure)
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu đề tài.................................................................................8
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu................9
5. Các vấn đề dự kiến cần giải quyết ....................................................................11
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÃN HIỆU ÂM THANH......12
1.1. Khái quát nhãn hiệu âm thanh ....................................................................12
1.1.1. Lược sử phát triển của nhãn hiệu âm thanh ............................................12
1.1.2. Định nghĩa nhãn hiệu âm thanh ..............................................................16
1.2. Đặc điểm nhãn hiệu âm thanh .....................................................................20
1.3. Ý nghĩa của việc bảo hộ nhãn hiệu âm thanh .............................................23
1.4. Thách thức trong việc bảo hộ nhãn hiệu âm thanh....................................27
Kết luận chương 1 .................................................................................................30
CHƯƠNG 2. ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU ÂM THANH.....31
2.1. Là dấu hiệu âm thanh theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ ...................31
2.2. Có khả năng phân biệt..................................................................................37
2.1.1. Âm thanh có tính phân biệt cố hữu (inherently different or distinctive
sound)................................................................................................................38
2.1.2. Âm thanh không có tính phân biệt cố hữu (non-inherently different of nondistinctive sound) ..............................................................................................42
2.3. Không thuộc các trường hợp không được bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn
hiệu........................................................................................................................49
2.4. Được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền..................................52
Kết luận Chương 2. ...............................................................................................54
CHƯƠNG 3. THỦ TỤC ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU ÂM THANH VÀ
CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ NHÃN HIỆU ÂM THANH....................................56
2.1. Hồ sơ đăng ký nhãn hiệu âm thanh.............................................................56
2.2. Bảo vệ nhãn hiệu âm thanh..........................................................................62
2.2.1. Các biện pháp bảo vệ nhãn hiệu âm thanh..............................................63
2.2.2. Đăng ký quốc tế về nhãn hiệu âm thanh .................................................64
Kết luận chương 3 .................................................................................................68
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................70
Danh mục tài liệu tham khảo .................................................................................73
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển của lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung là biểu hiện của một xã hội
tiến bộ, phát triển, bởi các giá trị trí tuệ được đề cao, bảo vệ và thúc đẩy sự sáng tạo.
Các quốc gia trong đó có Việt Nam không ngừng có những nỗ lực trong việc ghi
nhận, sửa đổi, bổ sung các điều khoản nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý về Luật Sở
hữu trí tuệ. Sự đóng góp của lĩnh vực sở hữu trí tuệ đến kinh tế đóng một vai trò vô
cùng quan trọng, bởi nó tạo cơ sở, động lực cho sự phát triển ấy. Khi đời sống xã hội
phát triển, con người ta lựa chọn cho mình những sản phẩm phù hợp với nhu cầu, khả
năng và mục đích của mình thay vì chỉ đáp ứng vấn đề “đủ ăn, đủ mặc” như trước
đây, các công ty, cơ sở sản xuất, kinh doanh lần lượt tạo dấu ấn cho riêng mình để
gây ấn tượng với người tiêu dùng không chỉ bởi chất lượng mà còn bởi những yếu tố
khác. Nhãn hiệu ra đời như một cơ sở pháp lý, thực tiễn để giúp người tiêu dùng phân
biệt được hàng hoá, dịch vụ của các cơ sở, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, đồng
thời giúp cho các chủ thể tạo ra sản phẩm, dịch vụ này có cơ hội để tạo hiệu ứng,
khẳng định được vị thế, nét đặc trưng của mình.
Bởi chính sự phát triển và nhu cầu ngày càng đa dạng của đời sống xã hội,
những dấu hiệu đơn thuần như chữ viết, hình ảnh không đủ để doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất, kinh doanh có thể sử dụng để tạo điểm khác biệt và đặc trưng cho sản phẩm,
dịch vụ của mình. Sức sáng tạo của con người còn vượt xa hơn thông qua các hình
thức khác mà người ta gọi là “phi truyền thống”1
, chẳng hạn như dấu hiệu là mùi
hương, mùi vị và cả âm thanh. Thực tế cho thấy, hiệu ứng âm thanh ngày càng trở
thành yếu tố hữu hiệu để tạo nên sự phân biệt của người tiêu dùng với hàng hoá, dịch
vụ, thậm chí là yếu tố thu hút khách hàng. Tốc độ phát triển của khoa học và công
nghệ đã dẫn đến việc truyền tải thông tin thuận lợi hơn. Đây cũng chính là cơ hội
nhưng đồng thời là thách thức cho các doanh nghiệp khi phải liên tục đổi mới, sáng
tạo để người tiêu dùng ấn tượng, nhận diện thương hiệu của mình trên thị trường vô
cùng đa dạng này. Các dấu hiệu âm thanh được sử dụng kết hợp với hình ảnh, chữ
1 Olga Morgulova (2017), Non-traditional trademarks Registration of aural and olfactory signs as trademarks
in accordance with the latest amendments of the European Trademark Regulation 2015/2424 and Trademark
Directive 2015/2436, Master Programme in Intellectual Property Law, Uppsala Universitet, p.10,11.
2
viết ngày càng phổ biến hơn, bởi nhìn chung nó tạo hiệu ứng hấp dẫn, kích thích khả
năng phân biệt về thính giác của con người.
Các Hiệp ước quốc tế ra đời đã có những sự chú trọng nhất định đối với việc
ghi nhận rộng rãi nhãn hiệu phi truyền thống, trong đó, đặc biệt là nhãn hiệu âm thanh.
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) chính thức
có hiệu lực đối với Việt Nam kể từ ngày 14/01/2019 quy định “Không Bên nào được
yêu cầu, như một điều kiện để được đăng ký, là dấu hiệu phải nhìn thấy được, cũng
như không Bên nào được từ chối đăng ký một nhãn hiệu chỉ với lý do rằng dấu hiệu
cấu thành nhãn hiệu đó là âm thanh”. Như vậy, việc thừa nhận hay nói cụ thể hơn là
tạo khung pháp lý về nhãn hiệu âm thanh là yêu cầu mà Việt Nam phải thực hiện để
tiệm cần với nền pháp lý quốc tế trong xu hướng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới vốn đặt sở hữu trí tuệ ở một vị trí quan trọng.
Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2022 (Luật số 07/2022/QH15) đã
chính thức ghi nhận dấu hiệu âm thanh có thể được đăng ký bảo hộ dưới danh nghĩa
nhãn hiệu. Tuy nhiên, nội dung các quy định chỉ mới dừng lại ở việc là pháp luật sở
hữu trí tuệ có ghi nhận dấu hiệu âm thanh để bảo hộ mà chưa có một quy chế pháp lý
nào đặc thù liên quan nội dung này về điều kiện bảo hộ cũng như quy trình đăng ký.
Khác với những dấu hiệu truyền thống khác mà người tiêu dùng có thể nhận thức
được bằng thị giác, nhãn hiệu âm thanh đòi hỏi sự phân biệt về mặt tần suất, nhịp
điệu, cấu tạo âm thanh bởi thính giác của con người. Ngoài ra, việc đánh giá dấu hiệu
âm thanh cũng đòi hỏi có các đặc trưng nhất định. Việc ghi nhận một cách chung
chung, đơn giản vô hình chung đã tạo nên khó khăn cho công tác thẩm định hay trong
quá trình sáng tạo và đăng ký dấu hiệu âm thanh làm nhãn hiệu của các doanh nghiệp.
Như vậy, quy định này cũng chưa thực sự mang lại hiệu quả trong khi việc thực thi
Hiệp định CPTPP cần phải có sự thiện chí, xúc tiến đúng lộ trình. Mặt khác, với nhu
cầu của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập toàn cầu, tính cấp thiết của việc
hiệu quả hoá hành lang pháp lý điều chỉnh nhãn hiệu âm thanh là vô cùng cấp bách.
Từ những nội dung trên, tác giả lựa chọn đề tài “Bảo hộ nhãn hiệu âm thanh
theo pháp luật sở hữu trí tuệ” làm đề tài luận văn Thạc sĩ. Công trình sẽ khái quát
các vấn đề chung về bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, quy định của pháp luật quốc tế, pháp
luật một số quốc gia và thực tiễn các tranh chấp có liên quan đến nhãn hiệu âm thanh
trên thế giới để từ đó có cái nhìn đa chiều, khách quan nhằm đưa ra những đề xuất
3
mang tính xây dựng để hoàn thiện khung pháp lý của Luật Sở hữu trí tuệ về nhãn hiệu
âm thanh về điều kiện bảo hộ cũng như quy trình đăng ký, bảo hộ nhãn hiệu âm thanh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến nội dung đề tài, tại Việt Nam vẫn chưa có một công trình ở cấp
độ luận văn Thạc sĩ nghiên cứu chuyên sâu về nhãn hiệu âm thanh ở khía cạnh pháp
luật sở hữu trí tuệ có cập nhật Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí
tuệ, được thông qua ngày 16 tháng 6 năm 2022. Tuy nhiên, có nhiều bài viết trên các
tạp chí chuyên ngành, Hội thảo khoa học có các đánh giá, bàn luận về nhãn hiệu âm
thanh nói riêng hay nhãn hiệu phi truyền thống nói chung, các công trình nghiên cứu
về nhãn hiệu phi truyền thống khác. Mỗi công trình nghiên cứu, đánh giá những khía
cạnh nhất định xoay quanh điều kiện bảo hộ dấu hiệu là âm thanh, cơ chế thẩm định
nó. Ở nước ngoài, nhiều công trình như sách, tạp chí khoa học chuyên ngành cũng có
nghiên cứu và phân tích nội dung này, trong đó đề cập đến những vụ việc tranh chấp
cụ thể, phương hướng giải quyết và cơ chế để công nhận một dấu hiệu là nhãn hiệu
âm thanh. Tuy nhiên, nhìn chung, vẫn chưa có một công trình nào tập trung phân tích
một cách đầy đủ, chuyên sâu, có tính hệ thống ở cấp độ một luận văn Thạc sĩ. Một số
công trình giá trị, liên quan đến nội dung đề tài có thể kể đến mang giá trị tham khảo
cao như sau:
Nhóm khoá luận, luận văn, luận án
Liên quan đến vấn đề nhãn hiệu nói chung và cơ chế bảo hộ một dấu hiệu dưới
danh nghĩa nhãn hiệu, có thể kể đến công trình của tác giả Phan Ngọc Tâm (2011),
Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng – nghiên cứu so sánh pháp luật Liên minh châu Âu và
Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Luận án cung cấp hệ thống kiến thức tham khảo quan trọng, nền tảng về nhãn hiệu,
về bản chất, đặc trưng của nhãn hiệu nói chung và một nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng.
Đây là tài liệu tham khảo quan trọng để tác giả có cứ liệu xây dựng hoàn thiện phần
những vấn đề chung về nhãn hiệu âm thanh của mình.
Ngoài ra, ở cấp độ luận văn, còn có công trình tiếng nước ngoài của tác giả
Olga Morgulova (2017), Non-traditional trademarks Registration of aural and
olfactory signs as trademarks in accordance with the latest amendments of the
European Trademark Regulation 2015/2424 and Trademark Directive 2015/2436,
Master Programme in Intellectual Property Law, Uppsala Universitet. Dù luận văn
4
không nghiên cứu chuyên sâu về nhãn hiệu âm thanh, nhưng dựa vào các phân tích
bản chất của loại nhãn hiệu phi truyền thống – trong đó có nhãn hiệu âm thanh, đặc
biệt công trình làm nổi bật vấn đề pháp lý đáng quan tâm về nhãn hiệu âm thanh đó
là quy trình thẩm định và đăng ký. Tác giả lấy bối cảnh của nền pháp lý của Liên
minh châu Âu để làm rõ, đi sâu và phân tích khía cạnh này. Giá trị tham khảo quan
trọng của công trình nằm ở sự đánh giá, quan điểm, góc nhìn của tác giả về nền pháp
luật sở hữu trí tuệ khá phát triển – châu Âu.
Đề cập đến các kiến thức về nhãn hiệu nói chung, sách chuyên khảo của Trường
Đại học Luật TP.HCM (2018), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, NXB. Hồng
Đức – Hội Luật gia Việt Nam đã trang bị nền tảng lý luận cho việc xây dựng các cơ
sở lý thuyết liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu, đến điều kiện để công nhận một dấu hiệu
là nhãn hiệu và cơ chế thẩm định cũng như bảo hộ nó. Tác giả tập trung tham khảo
và vận dụng để tăng giá trị của phần nghiên cứu chung của chương 1 và chương 2.
Liên quan đến các bình luận, đánh giá về nhãn hiệu nói chung không thể không
kể đến tài liệu tham khảo quan trọng của Trường Đại học Luật TP.HCM (2018), Sách
tình huống Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam (tái bản lần thứ nhất, sửa đổi bổ sung),
NXB.Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam. Sách cung cấp các bản án và bình luận của
các chuyên gia về từng vụ việc tranh chấp sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, trong đó có
tranh chấp về nhãn hiệu. Mặc dù không có các bản án về tranh chấp nhãn hiệu âm
thanh, nhưng giá trị tham khảo của bài viết nằm ở cách đánh giá, bình luận về các các
điều kiện để một dấu hiệu được công nhận là một nhãn hiệu, khả năng phân biệt của
nó và góc nhìn của chuyên gia về yếu tố trên. Qua đó, tác giả vận dụng làm cơ sở
khoa học cho các nhận định của mình về dấu hiệu tạo nên nhãn hiệu âm thanh theo
pháp luật sở hữu trí tuệ.
Bàn về bản chất của nhãn hiệu, có thể kể đến tác giả Gordon V. Smith (1997),
Trademark Valuation, John Wiley & Sons, INC. Sách là tổng hợp các nghiên cứu,
phân tích khoa học về bản chất của nhãn hiệu, để cho thấy giá trị của một nhãn hiệu
đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, với nền kinh tế thị trường
vốn năng động, sáng tạo. Giá trị tham khảo của sách nằm ở sự phân tích tổng thể,
khách quan cả yếu tố pháp lý và kinh tế về bức tranh tổng thể nhãn hiệu, cho thấy
được tầm quan trọng của việc phát triển nhãn hiệu, sáng tạo nó qua các hình thức
khác nhau như hình ảnh, âm thanh, mùi hương,… Tác giả tham khảo các nội dung
này làm cơ sở nền tảng xây dựng nên khung lý thuyết chung về nhãn hiệu âm thanh.
5
Liên quan đến hệ thống pháp luật một số quốc gia, tác giả chú trọng tài liệu của
Tobias Cohen Jehoram, Constant van Nispen, Tony Huydecoper (2010), European
Trademark Law – Community Trademark Law and Harmonized National Trademark
Law, Kluwer Law International, Wolters Kluer Law & Business. Sách là khái quát và
các phân tích chuyên sâu về hệ thống pháp luật nhãn hiệu ở châu Âu. Trong quá trình
nghiên cứu, tác giả làm rõ lịch sử phát triển của nhu cầu sử dụng các dấu hiệu từ
truyền thống đến phi truyền thống để làm nhãn hiệu, tạo sự phân biệt của người tiêu
dùng với hàng hoá, dịch vụ. Tài liệu này là nguồn tham khảo quan trọng về hệ thống
pháp luật châu Âu liên quan đến vấn đề nhãn hiệu, qua đó, tác giả có cứ liệu giá trị
để tổng hợp, phân tích kinh nghiệm pháp luật các quốc gia.
Ngoài ra, tham khảo về bản chất của nhãn hiệu dưới góc độ pháp luật sở hữu
trí tuệ không thể không kể đến sách tham khảo của tác giả Richard Stim (2020),
Patent, Copyright &Trademark – An Intellectual Property Desk Reference (16th
Edition), NoLo Law for all. Sách cung cấp kiến thức cơ bản về nhãn hiệu dưới góc
độ pháp luật sở hữu trí tuệ. Tầm quan trọng của nhãn hiệu trong xu thế của nền kinh
tế thị trường năng động đã thúc đẩy sự sáng tạo không ngừng của các chủ thể kinh tế,
đòi hỏi họ phải có những sự đầu tư, tạo điểm nhấn, nét đặc trưng của hàng hoá, dịch
vụ do mình cung ứng trên thị trường, giúp người tiêu dùng phân biệt được các loại
hàng hoá, dịch vụ. Nhãn hiệu cũng là một trong số các công cụ hữu hiệu để đáp ứng
điều đó. Với mức độ phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông, các dấu hiệu
phi truyền thống ra đời như âm thanh, mùi hương, mùi vị trở nên phổ biến và thu hút
người tiêu dùng hơn, tạo hiệu quả cạnh tranh hơn so với các dấu hiệu truyền thống.
Sách đã làm rõ được yếu tố này, đồng thời cho thấy nhu cầu cần thiết có cơ chế pháp
lý về sở hữu trí tuệ riêng cho các loại dấu hiệu đặc trưng này. Tác giả sử dụng tài liệu
để làm cơ sở tham khảo cho phần khái quát chung của luận văn về nhãn hiệu âm
thanh.
Nhóm tạp chí
Nhiều bài viết cũng có những nghiên cứu, đánh giá, phân tích cụ thể về nhãn
hiệu phi truyền thống nói chung, nhãn hiệu âm thanh nói riêng. Các công trình đều là
những nguồn tài liệu tham khảo quan trọng, ở nhiều khía cạnh khác nhau để tác giả
vận dụng phân tích chuyên sâu về nhãn hiệu âm thanh. Có thể kể đến các bài viết có
giá trị tham khảo lớn cho đề tài luận văn như sau:
6
Nghiên cứu một cách cụ thể về nhãn hiệu âm thanh có thể kể đến tác giả Nguyễn
Tùng Lâm (2017), “Bảo hộ nhãn hiệu âm thanh theo pháp luật Hoa Kỳ - kinh nghiệm
cho Việt Nam”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 3/2017. Bài viết chủ yếu tập trung trình
này, phân tích các quy định của pháp luật Hoa Kỳ về nhãn hiệu âm thanh, đưa ra một
số tranh chấp liên quan để làm rõ bản chất nhãn hiệu âm thanh, từ đó tác giả bài viết
cũng kiến nghị những bổ sung, sửa đổi của pháp luật sở hữu trí tuệ nhằm thích ứng
với xu hướng trong tương lai. Bài viết này là tài liệu tham khảo giá trị cho tác giả
trong quá trình nghiên cứu về bản chất nhãn hiệu âm thanh và pháp luật Hoa Kỳ về
nội dung này.
Bên cạnh đó, một nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Hoàng Hạnh (2021), “Bảo
hộ nhãn hiệu âm thanh - Kinh nghiệm quốc tế và những đề xuất cho Việt Nam”, Tạp
chí Khoa học pháp lý, số 9/2021. Bài viết thể hiện các phân tích cơ sở, tính cần thiết
của bảo hộ nhãn hiệu âm thanh nói riêng và bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống nói
chung, tác giả cũng chỉ ra các loại âm thanh được bảo hộ, đồng thời phân tích điều
kiện để một dấu hiệu âm thanh được bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn hiêu, đưa ra các
đề xuất về mặt thẩm định, quy trình nộp đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu âm thanh. Bài
viết là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng cho tác giả khi xây dựng chương 1 những
vấn đề chung về nhãn hiệu âm thanh, đồng thời tác giả cũng tham khảo một quan
điểm mới về các điều kiện để đề xuất bảo hộ nhãn hiệu âm thanh khi mà Luật SHTT
sửa đổi, bổ sung năm 2022 chính thức có hiệu lực.
Ngoài ra còn có bài viết của tác giả Đỗ Thị Đức (2016), “Một số vấn đề về đăng
ký nhãn hiệu âm thanh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8. Bài viết tập trung bàn
về cơ sở để đánh giá nhãn hiệu âm thanh từ đó làm nền tảng cho việc thẩm định một
dấu hiệu âm thanh trở thành nhãn hiệu. Qua đó, tác giả bài viết cũng làm rõ quy trình
để đăng ký nhãn hiệu âm thanh, nó khác biệt và có nhiều điểm đặc thù so với quy
trình thẩm định các dấu hiệu truyền thống khác. Tác giả bài viết còn đầu tư nghiên
cứu pháp luật một số quốc gia về quy trình đăng ký, từ đó đưa ra các gợi mở cho việc
hoàn thiện khung pháp lý của Việt Nam nếu gia nhập các hiệp ước quốc tế trong
tương lai. Đây là tài liệu tham khảo quan trọng, hỗ trợ nguồn quan điểm cá nhân,
phân tích về nhãn hiệu âm thanh, là cơ sở cho tác giả có các đánh giá khoa học về
bản chất nhãn hiệu âm thanh, quy trình hợp lý để thẩm định đơn đăng ký nhãn hiệu
âm thanh.
7
Liên quan đến nhãn hiệu phi truyền thống nói chung, có thể kể đến bài viết
“Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống theo pháp luật Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Phước Quý Quang, Trần Ngọc Tuấn (2019), Tạp chí
Nghiên cứu khoa học và phát triển kinh tế, số 7. Nghiên cứu là sự phân tích về các
quy định của pháp luật Hoa Kỳ về các tiêu chí, dấu hiệu để một nhãn hiệu được bảo
hộ, trong đó có các dấu hiệu phi truyền thống. Đặc biệt, nghiên cứu có sự phân tích,
so sánh giữa pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ về các quy định
liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu, từ đó đưa ra các kiến nghị về việc bảo vệ nhãn hiệu
phi truyền thống, bao gồm: nhãn hiệu mùi hương, nhãn hiệu âm thanh, nhãn hiệu
màu, nhãn hiệu hình ảnh trên giao diện điện tử, dấu hiệu ba chiều trong pháp luật Việt
Nam.
Cùng đề tài còn có bài viết “Bảo hộ nhãn hiệu không truyền thống” của tác giả
Nam Hoa (2007), Tạp chí Khoa học pháp lý, số 27 (106). Bài viết tập trung làm rõ
vấn đề bảo hộ nhãn hiệu âm thanh. Theo đó, bài viết khái quát tình trạng bảo vệ nhãn
hiệu âm thanh tại một số quốc gia như Hoa Kỳ, Anh, Đức, Mexico, Trung Quốc,
Brazil, Hàn Quốc, Đài Loan và Việt Nam. Từ đó, tác giả tổng hợp đưa ra các điều
kiện để một nhãn hiệu âm thanh được bảo hộ.
Nhóm giáo trình, sách chuyên khảo
Các bài viết tạp chí của tác giả nước ngoài tiêu biểu có thể kể đến như sau:
Các bài viết học thuật nước ngoài cũng đề cập và chú trọng các nghiên cứu với
nhãn hiệu âm thanh nói riêng hay nhãn hiệu phi truyền thống nói chung, có thể kể
đến một số bài viết như sau:
Liên quan đến nhãn hiệu phi truyền thống, tác giả nhận thấy bài viết của
Kenneth L. Port (2011), On Nontraditional Trademarks, Northern Kentucky Law
Review mang lại giá trị tham khảo lớn. Bài viết phân tích quá trình phát triển các
nhãn hiệu phi truyền thống, trong đó, đặc biệt chú trọng tính quan trọng, phổ biến và
hiệu ứng tích cực mà nhãn hiệu âm thanh mang lại. Ngoài ra, dưới góc độ kinh tế, các
nhãn hiệu phi truyền thống chứa đựng tiềm năng cho việc xây dựng và khẳng định
thương hiệu. Dưới góc độ pháp lý, tác giả bài viết đặc biệt chú trọng đến các quy định
để xác định một dấu hiệu phi truyền thống trở thành nhãn hiệu và quy trình thẩm định
đơn đăng ký đảm bảo tính chính xác, hiệu quả nhất. Qua đó, tác giả trang bị cơ sở lý
luận về nhãn hiệu phi truyền thống nói chung và nhãn hiệu âm thanh nói riêng.
8
Ngoài ra, còn có bài viết của tác giả Lisa P. Lukose (April-June 2015), Nontraditional trademarks: a critique, Journal of the Indian Law Institute, Vol. 57, No.
2. Dù đứng dưới góc độ chung nhất nghiên cứu về nhãn hiệu phi truyền thống, tuy
nhiên, trong nội dung bài viết cũng tập trung đề cập đến nhãn hiệu âm thanh, bình
luận mặt tích cực và hạn chế của loại nhãn hiệu này. Qua đó, tác giả có những cái
nhìn toàn diện hơn về nhãn hiệu âm thanh, đưa ra những phân tích khách quan, có cơ
sở và các kiến nghị thuyết phục hơn.
Bên cạnh đó, bài viết của tác giả Martin Lindstrom (2005), Brand sense - Build
Powerful Brands through Touch, Taste, Smell, Sight, and Sound, A Division of Simon
& Schuster, Inc. cũng chứa đựng các nội dung mang giá trị tham khảo lớn. Trong nội
dung bài viết, tác giả đề cập đến tầm quan trọng của việc phải xây dựng uy tín, điểm
đặc biệt thu hút người tiêu dùng của một thương hiệu dựa trên nhãn hiệu phi truyền
thống, trong đó đặc biệt chú trọng nhãn hiệu âm thanh bởi tính hiệu quả và đặc sắc
của nó. Qua đó, tác giả có cơ sở để xác định được rằng, ghi nhận nhãn hiệu âm thanh
chính là phù hợp với xu hướng của sự phát triển, giá trị của việc hoàn thiện khung
pháp lý để quản lý cũng như tạo điều kiện cho nhãn hiệu âm thanh được phát triển.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở việc nghiên cứu các quy định của pháp luật, nhu cầu thực tiễn về
bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, đồng thời đánh giá các công trình có liên quan đến đề tài,
nhận thấy các công trình chưa phân tích một cách thống nhất, chuyên sâu liên quan
đến việc bảo hộ nhãn hiệu âm thanh. Do đó, thực hiện luận văn này, tác giả tập trung
làm rõ các vấn đề sau:
Thứ nhất, phân tích các vấn đề khái quát chung về việc bảo hộ nhãn hiệu âm
thanh, làm rõ khái niệm, bản chất của nhãn hiệu âm thanh, tính hợp quy luật của sự
phát triển khi ghi nhận nhãn hiệu âm thanh vào hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, phân tích các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam về nhãn
hiệu nói chung và nhãn hiệu âm thanh nói riêng, về điều kiện để một dấu hiệu trở
thành nhãn hiệu và quy trình đăng ký cũng như cơ chế bảo hộ nó. Ngoài ra, tác giả
cũng so sánh, đối chiếu cũng như phân tích kinh nghiệm của pháp luật một số quốc
gia có nền pháp lý sở hữu trí tuệ phát triển như Hoa Kỳ, Australia, Liên minh Châu
Âu để từ đó làm rõ hơn về việc bảo hộ nhãn hiệu âm thanh.
9
Thứ ba, đề tài cũng dành sự tập trung cho việc nghiên cứu thực tiễn xét xử các
tranh chấp về nhãn hiệu âm thanh ở một số quốc gia, làm kinh nghiệm cho Việt Nam
trong giai đoạn đầu khi ghi nhận nhãn hiệu âm thanh được bảo hộ bởi pháp luật sở
hữu trí tuệ. Đồng thời, phân tích quy định về thủ tục, trình tự đăng ký nhãn hiệu âm
thanh.
Dựa vào các nội dung trên, tác giả đưa ra các tổng hợp, xây dựng cơ chế mang
tính đề xuất khung pháp lý về nhãn hiệu âm thanh làm tăng giá trị tham khảo của đề
tài luận văn Thạc sĩ.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Nhãn hiệu âm thanh là nội dung mà Hiệp định CPTPP yêu cầu Việt Nam –
quốc gia thành viên không được từ chối việc bảo hộ trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ cũng có những sự
ghi nhận nhất định, nhưng quy định vẫn còn sơ khai, chưa có khung pháp lý cụ thể.
Do đó, luận văn tập nghiên cứu các khía cạnh pháp lý, bản chất của nhãn hiệu âm
thanh với phạm vi cụ thể như sau:
Về nội dung: đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề về nhãn hiệu âm thanh nói
riêng và nhãn hiệu nói chung ở các văn bản quy phạm pháp luật sở hữu trí tuệ hiện
hành và thực tiễn xét xử.
Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật Việt Nam và pháp
luật một số quốc gia có nền pháp lý sở hữu trí tuệ tiên tiến trên thế giới, có sự ghi
nhận về nhãn hiệu âm thanh để có các đối chiếu, rút ra kinh nghiệm trong quá trình
nghiên cứu, từ đó tác giả đưa ra các kiến nghị mang tính xây dựng, hoàn thiện pháp
luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.
Về thời gian: Luận văn chỉ nghiên cứu pháp luật thực định Việt Nam tức pháp
luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành, bao gồm Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa
đổi bổ sung năm 2009, 2019, 2022 và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Đồng thời,
khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài, tác giả cũng tìm hiểu, phân tích pháp luật, vụ
việc thực tiễn khi các dấu hiệu âm thanh được ghi nhận thành nhãn hiệu.