Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Bàn về văn minh
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Bàn Về Văn Minh
Fukuzawa Yukichi
Lê Huy Vũ Nam & Nguyễn Anh Phong dịch
Nguyên Ngọc giới thiệu
Nhà xuất bản Thế Giới
Nhã Nam phát hành
—★—
ebook©vctvegroup
C
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
uốn sách này do tác giả Fukuzawa Yukichi biên soạn, được
hoàn thành vào năm 1875, từ đó đến nay, đã hơn 1 thế kỷ
trôi qua (143 năm) khoa học xã hội của thế giới nói chung và của
Nhật Bản nói riêng đã có những bước tiến dài rộng. Bạn đọc sẽ gặp
trong tác phẩm này một số quan niệm, khái niệm, luận đề và cách lý
giải khác với thời hiện đại. Do vậy, cuốn sách chỉ có giá trị làm
nguồn tư liệu tham khảo để mở rộng vốn kiến thức cũng như để đối
sánh với các lý thuyết văn hóa học hay nhân học, xã hội học, v.v.
của thế giới hôm nay. Trong bài viết ở đầu sách, có một số đánh giá,
cách nhìn nhận chủ quan của người viết, không phải quan điểm của
Nhà xuất bản.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Nhà xuất bản Thế Giới
T
FUKUZAWA YUKICHI VÀ CÁCH LỰA CHỌN CỦA
NHẬT BẢN
NGUYÊN NGỌC
rong cuốn sách của Fukuzawa Yukichi bạn đang cầm trên
tay, ở chương “Bàn về tri thức và đạo đức của một nước”, tại
tiểu mục “Lý do thành công thực sự của cuộc Minh Trị Duy Tân”, có
một câu rất lạ. Fukuzawa viết, như reo lên: “May thay, Phó Đề Đốc
Perry đã đến Nhật vào năm Kaei (tức năm 1853)!” Perry là ai? Vì
sao việc ông đến Nhật năm 1853 được Fukuzawa, một trong những
nhân vật quan trọng nhất có công sáng lập nên nước Nhật hùng
cường ngày nay, chào đó như một tin vui lớn? Matthew C. Perry là
một viên tướng xâm lược, năm 1853 được phái đến trước cảng Edo
(tức Tokyo ngày nay) với cương vị Phó Đề Đốc Hải quân, chỉ huy
một hạm đội hùng mạnh, mang theo bức thư của Tổng thống Hoa
Kỳ Milliard Fillmore đòi Nhật Bản, thời bấy giờ đang triệt để thực
hiện chính sách bế quan tỏa cảng của chế độ Mạc phủ Tokugawa,
phải mở cửa giao thương, hẹn một năm sau sẽ trở lại để thấy đòi
hỏi được thực hiện. Nhưng rồi không chờ tới một năm, chỉ bảy
tháng sau, đầu năm 1854, Perry đã quay lại, với hạm đội đông gấp
đôi, lại có thêm liên quân hùng hổ của Anh, Pháp, Hà Lan, Nga…
Chúng ta nhớ một sự kiện gần như hoàn toàn tương tự đối với
Việt Nam cũng đúng vào thời ấy. Đây là lúc chủ nghĩa tư bản
phương Tây chen nhau đi tìm thị trường ở phương Đông. Hoa Kỳ,
Anh, Hà Lan… thèm thuồng đổ vào Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản…
Pháp, chậm chân hơn, nhắm đến Việt Nam. Năm 1858, tức chỉ năm
năm sau sự kiện Perry đến Edo, Đô Đốc hải quân Pháp Rigault de
Genouilly, sau nhiều lần không thành công ở Trung Quốc, cho hạm
đội chuyển hướng về Nam, ngày 30 tháng Tám đến cửa Đà Nẵng,
gửi một tối hậu thư cho vua Tự Đức buộc mở cửa cho hạm đội của
ông ta. Bị từ chối, hai ngày sau Genouilly nổ súng tấn công Đà
Nẵng. Trên thành Điện Hải ở cửa Đà Nẵng, tướng Nguyễn Tri
Phương, dưới sự chỉ đạo ráo riết của Tự Đức, tổ chức chống cự
quyết liệt, buộc Genouilly phải bỏ Đà Nẵng, chuyển vào chiếm Sài
Gòn và Nam Bộ, xong mới trở ra đánh chiếm Huế và Đà Nẵng. Và
lần này thì triều đình Huế phải ký hiệp ước đầu hàng. Pháp thống trị
Việt Nam, và cả Đông Dương từ đó, kéo dài gần một thế kỷ.
Trước nguy cơ sống còn đến từ phương Tây hai thế kỷ trước,
Nhật Bản mà Fukuzawa Yukuchi là tiêu biểu, và Việt Nam mà
Nguyễn Tri Phương với Tự Đức cũng có thể coi là tiêu biểu, đã có
hai thái độ và hai cách ứng xử hoàn toàn đối nghịch. Một bên vũ
trang chống cự quyết liệt và anh hùng. Một bên vui mừng chào đón
như một vận may lớn…
Tại sao?
Để hiểu rõ đôi chút những điều vừa nói, cần trở lại dù chỉ rất vắn
tắt lịch sử và tình thế xã hội Nhật Bản hồi bấy giờ. Nhật Bản là một
đất nước có lịch sử lâu dài. Thủ đô đầu tiên được thành lập tại Nara
năm 710. Hoàng tộc, đứng đầu là Thiên hoàng, nổi lên khoảng năm
700, nhưng đến năm 1868 vẫn có uy tín cao nhưng thực tế còn rất ít
quyền lực. Vào năm 1550, đất nước được chia thành vài trăm đơn vị
kiểm soát tại địa phương, hoặc các khu vực thuộc quyền kiểm soát
lãnh chúa, với lực lượng của riêng mình là các chiến binh samurai.
Tokugawa Ieyasu lên nắm quyền năm 1660, phong đất cho những
người ủng hộ ông, thành lập Mạc phủ ở Tokyo, đàn áp các hoạt
động Kito giáo và thực hiện chính sách “tỏa quốc”, cắt đứt gần như
mọi tiếp xúc với thế giới bên ngoài… Đến giữa thế kỷ 19, sau hơn
hai trăm năm thống trị, chế độ Mạc phủ lâm vào khủng hoảng
nghiêm trọng. Nhật Bản vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu dựa
trên nền tảng phong kiến. Dân làm ruộng phải chịu tô thuế nặng, lại
bị mất mùa, lâm cảnh bần cùng… Trong khi đó thương nghiệp lại
bùng phát với lợi điểm hải cảng lớn, nhà buôn phát giàu nhanh
chóng… Về mặt xã hội, Nhật Bản lúc bấy giờ vẫn duy trì chế độ
đẳng cấp với quyền bính do các đại danh (daimyō) và võ sĩ
(samurai) nắm cả… Giai cấp tư sản tư sản công thương nghiệp
ngày càng giàu lên nhưng không có quyền lực về chính trị, lại bị
đánh thuế nặng nên xung khắc với thống trị của Mạc phủ chuyên
chế. Yêu cầu lật đổ Mạc phủ, cải cách xã hội bùng lên, nhưng còn
chưa đủ sức…
Chính trong tình thế giằng co đó, “Phó Đề Đốc Perry đã đến”.
Mạc phủ Tukugawa phải ký nhiều điều ước rất bất lợi với các quốc
gia phương Tây. Sau lời reo “May thay”, Fukuzawa viết: “Sự kiện
này là một cơ hội tốt cho cải cách… người dân bắt đầu nhận ra
chính sách của Mạc phủ nhu nhược và thiếu hiệu quả như thế nào.
Mặt khác, qua việc tiếp xúc trò chuyện với những người nước ngoài,
đọc sách phương Tây và các bản dịch từ tiếng phương Tây, người
dân hiểu được rằng, một chính quyền như Mạc phủ, kể cả có bạo
ngược hung tàn đến mấy chăng nữa, sức người cũng hoàn toàn có
thể đánh đổ được. Việc này cũng giống như thể một người điếc và
mù lòa đột nhiên nghe rõ được âm thanh, nhìn thấy được ánh sáng.”
Như vậy đấy, nếu ở Việt Nam mối đe dọa đến từ phương Tây
gây ra sự kháng cự bằng cả vũ trang, thì Nhật Bản lại tìm thấy cơ
hội thức tỉnh để lật đổ chuyên chế kìm hãm, và cả ánh sáng của
triển vọng phát triển thành văn minh, để giữ được độc lập. Hai lựa
chọn khác nhau, sẽ đưa đến kết quả trái ngược.
Tuy nhiên, sự thức tỉnh không diễn ra đơn giản một chiều. Nó
cần những bước rèn luyện dần từ tự phát cảm tính bồng bột ban
đầu trở thành chuyển động căn bản của đất nước và xã hội, đầy ý
thức, có thể làm thay đổi căn bản tình thế và vận mệnh dân tộc.
Sáng suốt và sâu sắc, Fukuzawa phân tích: “Kể từ thời lập quốc,
đây là lần đầu tiên dân chúng trong nước tiếp xúc với người nước
ngoài. Việc này cũng giống như thể đang từ trong màn đêm tịch
mịch đột nhiên lọt vào giữa buổi trưa chói chang náo nhiệt; mọi thứ
đập vào mắt họ đều kì quặc quái dị, chẳng có thứ gì mà họ ưa cho
nổi....” Nên thoạt tiên trong dân chúng đã bùng phát một tình cảm và
một phong trào bài ngoại triệt để. Fukuzawa gọi đó là kiểu “tinh thần
yêu nước nhưng thô ráp” của “những con người chưa trưởng thành,
nhưng khi sự phồn thịnh của tổ quốc đã trở thành mục đích của họ,
họ trở thành những công dân hoàn toàn vì cái chung”. Trong lúc đó,
Mạc phủ vì vai trò của mình, buộc phải đứng ra giao thiệp và
nhượng bộ với nước ngoài. Càng khiến dân chúng phẫn nộ, Mạc
phủ lâm vào tình thế lưỡng nan, bị kẹp vào giữa chủ trương bài
ngoại và người nước ngoài. Phong trào bài ngoại ngày càng lớn,
không còn gì ngăn cản nổi. Họ nêu khẩu hiệu “bài ngoại”, “phục cổ”,
“tôn hoàng”, “đảo Mạc”. Cuộc cách mạng đánh đổ Mạc phủ, khôi
phục vị trí của Thiên hoàng, mà Fukuzawa gọi là “nguyên nhân gần”
của công cuộc Minh Trị Duy Tân, đã diễn ra như vậy. “Tuy vậy,” ông
viết tiếp, “việc bài ngoại mà lẽ ra sẽ là việc tiếp theo ngay tức khắc
sau thành công của công cuộc cách mạng [lật đổ Mạc phủ] đã không
diễn ra”, bởi vì “cái đích [của cuộc cách mạng] ấy không phải là phục
hồi vương quyền, cũng chẳng phải là bài ngoại. […] lý do của cuộc
cách mạng không phải là vì Hoàng gia, và kẻ địch cũng không phải
là Mạc phủ. Đây là cuộc chiến giữa trí lực [của giai cấp tư sản và
nhân dân đang lên] và sự chuyên chế [của Mạc phủ kìm hãm]. Đó là
nguyên nhân xa.” Nguyên nhân chính.
“Sau khi đất nước mở cửa giao thương, cái nguyên nhân xa này
được các tư tưởng văn minh phương Tây hỗ trợ, dần dần lớn mạnh
lên.” Như vây, để mở ra cuộc chiến thì “cần có mũi tên tiên phong
[tức phong trào bài ngoại và lật đổ Mạc phủ] để lôi kéo mọi người
[…] trở thành một cuộc cách mạng […] nhưng sau khi ca khúc khải
hoàn thì càng lúc càng thấy rõ là những chủ trương đó mới yếu thế
và chung chiêng làm sao.” Đến lúc này, cần và đã xuất hiện một
nhân tố mới: “Mọi người dần dần từ bỏ sức mạnh của nắm đấm
thuần túy mà tập hợp cùng các nhóm trí thức.” Trí lực “ngày càng
lớn mạnh, làm cho tinh thần yêu nước thô ráp ngày một tinh tế, làm
cho kẻ [yêu nước] non nớt trưởng thành lên”. Và còn một điều quan
trọng: Cũng chính “trí lực” được “tinh tế hóa”, trở nên sáng suốt, anh
minh đó mới có thể nhận ra và tận dụng một lợi thế mới tuyệt vời:
ánh sáng và sức mạnh của văn minh phương Tây do chính kẻ định
xâm lược mang đến. Một nền tảng tư tưởng mới. Có tất cả những
cái đó thì Nhật Bản mới giữ vững được mình (mà Fukuzawa gọi là
“chính thể”), bảo toàn được độc lập và phát triển.
Và quả Nhật Bản đã đứng vững được, là nước châu Á duy nhất
đứng vững được trước bão táp của cuộc toàn cầu hóa lần thứ nhất
và phát triển vô cùng ngoạn mục.
Có lẽ nên tạm dừng ở đây đôi chút để thử nói về sự giống nhau
và khác nhau giữa Việt Nam và Nhật Bản cùng thời. Đối mặt với uy
hiếp đến từ phương Tây, ở Việt Nam bấy giờ cũng bùng lên một
cuộc bài ngoại mạnh mẽ, thậm chỉ bằng bạo lực vũ trang, điều mà
theo Fukuzawa là biểu thiện của một tinh thần yêu nước “thô ráp”,
“của những kẻ [anh hùng mà] non nớt”. Nhưng khác với Nhật Bản,
tinh thần yêu nước thô ráp đó đã không thể được chuyển thành tinh
tế, làm cho kẻ [anh hùng] non nớt trưởng thành lên. Bời vì kỳ thực
nó cũng không có mục đích trở thành “tinh tế” và “trưởng thành”. Khi
tiếp xúc với những người đến từ phương Tây nó chỉ dị ứng với kẻ
lạ, thậm chỉ coi họ là một bọn “Tây di”, lũ mọi rợ phương Tây. Cuộc
va chạm với phương Tây không tạo nên ở ta cơ sở để đòi hỏi một
cuộc cách mạng xã hội hướng tới văn minh, như người Nhật, dưới
sự dẫn dắt của những tri thức tiên tiến, mà Fukuzawa Yukichi là
người đứng đầu. Có lẽ ở ta chỉ có một người tương tự, xuất hiện
một cách đột xuất gần như đến khó hiểu, khó giải thích - Phan Châu
Trinh. Ông là người duy nhất thời bấy giờ không chỉ thấy ở người
Pháp đang kép đến một bọn xâm lược hung hãn, mà còn nhận ra
được qua họ một nền văn minh tốt đẹp mà ông tha thiết mong ước
cho dân tộc mình để có thể trường thành và sánh vai cùng họ. Chỉ
có thể thực hiện điều đó duy nhất bằng con đường “Khai dân trí”,
“Chi bằng học!” chứ không thể bạo lực, thì mới có được độc lập thật
sự và bền vững. Không thể bạo lực, tuyệt đối không bạo lực, “bạo
lực tắc tử!”, không phải vì nhân dân Việt Nam thiếu dũng khí, mà vì
vấn đề là văn minh, muốn giữ vững và phát triển thì phải thoát khỏi u
mê, trở nên văn minh, như họ, như phương Tây, mà văn minh thì
không thể chiếm lấy được bằng bạo lực!... Nhưng ông đã vô cùng
đơn độc, trong thời kỳ của mình và cả về sau này nữa. Dân tộc và
xã hội không nghe được tiếng gọi thống thiết hướng đến nền văn
minh của ông, bởi vì cái nền tảng xã hội trên đó ông đứng chỉ là một
xã hội nông dân với lòng yêu nước nồng cháy mà quá “thô ráp”. Và
cái tầng lớp sĩ phu nảy sinh trên nền tảng đó cũng chỉ có thể là tri
thức của một xã hội nông nghiệp lạc hậu, một lớp tri thức đầy khí
tiếp mà “thô ráp”, không hình thành được giai cấp tư sản dân tộc, tự
mình cũng không thể “tinh tế hóa” nổi, nói gì đến dắt dẫn ai! Đấy
chính là bi kịch lịch sử của Việt Nạm, còn dể lại di hại cho đến tận
bây giờ.
Cuốn sách này có tên là Bàn về văn minh, hay “Khái lược về văn
minh luận”. Cũng có thể gọi là “Giáo trình về văn minh”. Hoặc cũng
có thể gọi cách khác nữa, dài dòng nhưng cụ thể và chính xác hơn:
“Giáo trình về việc làm thế nào để lòng yêu nước chính đáng mà thô
ráp trở thành tinh tế, đạt đến văn minh, đặng có thể giữ được độc
lập và phát triển hùng cường?” Bài học Nhật Bản cho thấy, sau
phong trào yêu nước bài ngoại, thì tiếp đó, từ đó cần phải có một
công cuộc giáo dục quốc dân ráo riết, hết sức tích cực, rộng rãi, kiên
trì thì mới có thể đi đến được “trí lực” tinh tế để thành công. Công
việc to lớn, khó khăn ấy tất phải do một tầng lớp tri thức yêu nước
tiên tiến, là những người thầy học của dân tộc, nảy sinh từ tầng lớp
tư sản dân tộc đang lên, sáng suốt và dũng cảm trách nhiệm.
Fukizawa Yukichi là người đứng đầu trong số những người thầy đó
của dân tộc Nhật trong bước chuyển lịch sự sống còn. Suốt đời ông
không đảm nhiệm bất cứ chức vụ nào trong bộ máy công quyền.
Suốt đời ông tập trung khai hóa cho đạo đức. [Cũng như Việt Nam
không thiếu dũng khí.] Cái Nhật Bản thiếu là trí tuệ”. Kiên quyết thoát
Á trì đọng, tối tăm. Hướng về trí tuệ văn minh phương Tây sáng sủa,
tốt đẹp. Thì mới cứu được dân tộc trong phong ba của tiến hóa.
Người Nhật ngày nay coi ông là ân nhân số một của dân tộc.
Chân dung ông được in trên tờ bạc có mệnh giá cao nhất của Nhật,
tờ 10.000 yên. Có lẽ cũng chỉ có người Nhật mới làm vậy: dành vị trí
cao nhất, không phải cho một vị vua, một vị tướng, mà một nhà giáo
dục.
Mỗi lần nói về Nhật Bản, lại không thể không nghĩ về văn minh.
Sau hàng trăm năm đấu tranh và mấy cuộc chiến tranh liên miên,
khốc liệt và anh hùng, chúng ta đã có được độc lập. nhưng chúng ta
còn một món nợ cái bước tự luyện mình, dân tộc mình từ “thô ráp”
đến “tinh tế” để thật sự thành văn minh như người Nhật đã làm dưới
sự dắt dẫn của những tri thức vĩ đại như Fukuzawa Yukichi, cái
bước ấy ta chưa đi qua.
Cho nên cuốn sách này của Fukuzawa Yukichi vẫn còn nguyên
tính thời sự với chúng ta, vẫn là cuốn giáo khoa mẫu mực về con
đường văn minh cho ta.
Đầu xuân Mậu Tuất
N.N.
LỜI NÓI ĐẦU
“Văn minh luận” là lý luận về sự phát triển của tinh thần con
người.
Tuy nhiên “văn minh luận” không đề cập đến sự phát triển tinh
thần của cá nhân, mà là bàn về sự phát triển tinh thần của toàn thể
nhân dân trong một nước. Vì vậy có thể nói “văn minh luận” chính là
lý luận về sự phát triển của tinh thần con người.
Thế nhưng trong ứng xử xã hội, có rất nhiều người mắc phải sai
lầm về tầm nhìn khi mối quan tâm của họ bị vướng vào những được
mất, thiệt hơn mang tính cục bộ. Khi khảo cứu về văn minh, ta hầu
như không thể phân biệt được nguồn gốc của những thứ đã trở
thành tập quán lâu đời, đâu là đến từ tự nhiên, đâu là do con người
tạo ra. Có cái được cho là bắt nguồn từ môi trường tự nhiên, nhưng
thật ra chỉ là tập quán. Mặt khác, cái được gọi là tập quán có khi lại
từ tự nhiên mà ra. Luận về văn minh là công việc vô cùng khó khăn
vì phải cố gắng tìm cho được quy luật rõ ràng trong trạng thái hỗn
loạn, chồng chéo.
Văn minh phương Tây hiện nay có nguồn gốc rất xưa, trưởng
thành trong một ngàn mấy trăm năm từ khi đế quốc La Mã diệt vong.
Nước Nhật Bản cũng vậy, từ khi lập quốc đến nay đã có lịch sử
2.500 năm, và nền văn minh đặc thù của ta cũng đã tiến bộ đến một
mức độ nhất định. Tuy vậy, khi so sánh với văn minh phương Tây thì
thấy hướng đi của hai bên khác nhau rất nhiều.
Năm Kaei 6 (Gia Vĩnh, 1853) Phó Đề đốc Perry[1] đến Nhật Bản.
Sau đó, kể từ khi nước ta ký hòa ước mậu dịch với các nước
phương Tây, quốc dân ta mới lần đầu tiên biết đến sự tồn tại của
phương Tây. Kinh ngạc trước sự khác biệt lớn lao của nền văn minh
ấy, lòng người đã trở nên hoang mang dao động. Đương nhiên trong
lịch sử 2.500 năm của Nhật Bản, không phải không có những lần
nhân dân kinh động vì tao loạn. Nhưng nếu nói về sự kiện gây ấn
tượng sâu sắc đến tận đáy lòng người ta, thì tư khi Nho giáo và
Phật giáo truyền từ Trung Quốc vào nước Nhật ta đến nay, việc
bang giao với ngoại quốc gần đây chính là vấn đề ghê gớm nhất.
Hơn thế nữa, Nho giáo hay Phật giáo là những yếu tố Á Đông
được truyền trong nội bộ Châu Á nên cho dù có đôi chút khác biệt
với lề thói Nhật Bản thì việc tiếp xúc cũng không khó khăn gì. Triết lý
Nho giáo và Phật giáo đương thời có thể mới, nhưng không phải là
thứ quá đỗi xa lạ với tổ tiên chúng ta. Còn việc bang giao với ngoại
quốc thời gian gần đây thì không như vậy. Chúng ta đột nhiên bị đẩy
vào một mối quan hệ sát sạt với những nước có nền văn minh bản
địa khác biệt hẳn từ vị trí địa lý cho đến những yếu tố văn hóa, từ
diễn tiến của văn hóa cho đến trình độ phát triển. Chúng đâu chỉ mới
mẻ và kỳ lạ với người Nhật chúng ta; mọi thứ chúng ta thấy, chúng
ta nghe được về những nền văn hóa ấy đều lạ lùng và huyền hoặc.
Nếu tôi nói ví von thì cũng giống như lửa gặp nước lạnh vậy. Việc
giao lưu với ngoại quốc không chỉ gây ra sự bấn loạn về tinh thần,
nó còn tạo ra những chấn động to lớn, làm đảo lộn đến tận sâu thẳm
tâm hồn người Nhật.
Kết quả sinh ra từ sự khuấy đảo lòng người này là sự phục
quyền của Thiên hoàng và sau đó đến chính sách “bãi phiên lập
tỉnh”. Từ đó đến ngày hôm nay, tuy chế độ đã có sự thay đổi lớn
nhưng những xung đột ngoại giao không vì vậy mà nhỏ đi. Chiến
tranh[2] đã kết thúc cách đây mấy năm và dấu tích cũng không còn
nữa, song sự dao động trong lòng người chẳng những vẫn còn đó
mà ngày càng nghiêm trọng hơn.
Tôi cho rằng những xáo động trong lòng người của nhân dân
Nhật Bản hiện nay là xuất phát từ mong muốn tiến tới văn minh. Đó
là biểu hiện của lòng nhiệt tình muốn có được văn minh phương
Tây, không bằng lòng với nền văn minh nước ta xưa nay. Lòng nhiệt
tình này chắc sẽ không dừng lại chừng nào văn minh Nhật Bản
chưa sánh ngang hoặc vượt qua văn minh phương Tây. Tuy nhiên
văn minh phương Tây ngay trong lúc này cũng đang tiến bộ hằng
ngày nên chắc hẳn tinh thần người Nhật Bản cũng theo đó mà liên
tục vận động không ngừng nghỉ. Thực ra chính sự kiện Perry đến
nước ta thời Kaei đã châm ngòi cho trái tim của nhân dân Nhật bùng
lên, và một khi đã cháy, thì không thứ gì có thể dập tắt được.
Sự dao động của nhân tâm là như vậy. Hơn nữa, sự hỗn loạn và
chồng chéo trên mọi phương diện trong xã hội Nhật Bản đã ở mức
độ hầu như không thể tưởng tượng ra được nữa. Trong tình trạng
ấy mà cố gắng tìm cho ra lý luận hợp lý khi bàn về văn minh thì có
thể nói đúng là công việc khó khăn nhất đối với một học giả. Ở
phương Tây, giới học giả luôn liên tục đưa ra những thuyết mới với
những ý tưởng làm kinh ngạc mọi người. Tuy nhiên, họ đã rất thành
thục kế thừa di sản của cha ông với truyền thống hàng nghìn năm
nên cho dù các học thuyết của họ có vẻ mới lạ thì vẫn đều sinh ra từ
một nguồn cội, cho nên không phải là thứ hoàn toàn mới được tạo
ra. Còn sự hỗn loạn ở nước ta hiện thời thì tình thế ở phương Tây
không thể nào so được.
Nền văn minh nước Nhật ta bây giờ đang trong trạng thái như
lửa biến thành nước, như không chuyển thành có. Sự biến đổi đột
ngột này không thể mô tả chỉ bằng thuật ngữ “thay đổi” hay “tiến bộ”,
mà phải nói đó là một “khởi đầu mới” hay “sáng tạo” mới xứng. Cho
nên ngay cả việc bàn luận về sự biến đổi này cũng vô cùng khó
khăn.
Có thể thấy giới học giả đang đối mặt với một vấn đề nan giải,
tuy nhiên, ở đây, cũng không phải không có may mắn. Cụ thể là từ
khi mở cửa đến nay, giới học giả nước Nhật ta đã trở nên chuyên
tâm mà học hỏi phương Tây, những nghiên cứu của họ tuy có thể
còn sơ sài và thiếu sót, nhưng cũng đủ để nắm được phần nào văn
minh Tây phương. Thêm nữa, cũng những học giả này, hai mươi
năm trước vẫn còn đắm chìm trong văn minh Nhật Bản thuần túy; và
không chỉ chuyên chú vào lĩnh vực ấy, mà còn là những người trong
cuộc, nên khi bàn về quá khứ thì ít khi có chuyện học giả Nhật chỉ
dựa vào suy đoán mà trở nên hồ đồ. Họ có điểm mạnh là có thể dựa
trên chính kinh nghiệm của mình khi so sánh với văn minh phương
Tây. Ở điểm này có thể nói kinh nghiệm của học giả nước Nhật ta
xác thực hơn những học giả phương Tây - những người vốn sống
trong nền văn minh phương Tây đã được định hình mà đi suy đoán
tình hình của nước khác.
May mắn của giới học giả bây giờ, như mô tả ở trên, nằm ở chỗ
bản thân được trực tiếp trải nghiệm[3]
. Trải nghiệm này nếu bỏ lỡ