Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Bài giảng sinh lý thực vật - chương 6
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
Chương 6
SINH TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA THỰC VẬT
6.1. Khái niệm về sinh trưởng và phát triển.
Chúng ta đã nghiên cứu các hoạt động sinh lý của thực vật,
được xem như những chức năng sinh lý riêng biệt như: sự trao đổi
nước, quang hợp, hô hấp, dinh dưỡng khoáng và nitơ, sự biến đổi
và vận chuyển các chất hữu cơ ở trong cây. Các chức năng sinh lý
này xảy ra một cách đồng thời và luôn luôn có mối quan hệ khăng
khít ràng buộc với nhau. Kết quả hoạt động tổng hợp của các chức
năng sinh lý đó đã làm cho cây lớn lên, ra hoa kết quả rồi già đi và
chết, hay nói một cách khác đã làm cho cây sinh trưởng và phát
triển. Như vậy sinh trưởng và phát triển là một quá trình sinh lý
tổng hợp của cây, là kết quả của toàn bộ các chức năng và quá
trình sinh lý của cây.
6.1.1. Khái niệm về sinh trưởng.
Theo D.A. Xabinin: Sinh trưởng là quá trình tạo mới các yếu
tố cấu trúc của cây một cách không thuận nghịch (các thành phần
mới của tế bào, tế bào mới, cơ quan mới...) thường dẫn đến tăng
về số lượng, kích thước, thể tích, sinh khối của chúng. Tuy nhiên
không nên quan niệm sự sinh trưởng chỉ biểu hiện sự biến đổi về
lượng một cách đơn thuần, vì không phải bao giờ sự sinh trưởng
cũng dẫn đến sự biến đổi về kích thước và khối lượng. Chẳng hạn,
lúc tạo yếu tố cấu trúc mới của nhân, tế bào tạm ngừng lớn lên, khi
hạt trương nước thì trọng lượng chất khô không tăng, lúc ra hoa
cây ngừng sinh trưởng về kích thước... Nói chung sự sinh trưởng
của cây được biểu hiện ở những đặc điểm sau:
- Sự tăng về khối lượng và kích thước của cơ thể hoặc của
từng cơ quan (sự tăng trưởng chiều cao của thân cây, chiều dài
của cành, tăng diện tích của lá, tăng khối lượng quả, hạt...).
- Sự tăng thêm số lượng cơ quan, số lượng tế bào (cây mọc
thêm cành, cành ra thêm lá, số lượng tế bào ở mô phân sinh tăng
lên...).
- Tăng thể tích của tế bào, đặc biệt là tăng khối lượng chất
nguyên sinh ( tế bào sau khi phân chia xong thì tiến hành quá trình
2
giãn tế bào để tăng kích thước của tế bào và tăng khối lượng chất
nguyên sinh của tế bào).
- Tăng các yếu tố cấu trúc của tế bào (hình thành các bào
quan bên trong tế bào).
- Tăng trọng lượng chất khô của cây. Chẳng hạn ở thời kỳ
chín hạt cây ngừng tăng về kích thước của các cơ quan, nhưng
cây vẫn tích lũy thêm các chất hữu cơ về hạt.
6.1.2. Khái niệm về phát triển.
Sự phát triển là sự biến đổi chất lượng về sinh lý và hình thái
thể hiện trong suốt chu kỳ sống của thực vật từ sự tạo thành hợp
tử trên cây mẹ đến sự diệt vong của chúng khi già. Qua đó một lần
nữa thấy rằng sự sinh trưởng cũng như sự phát triển không phải là
một chức năng sinh lý riêng biệt mà là quá trình tổng hợp của các
chức năng sinh lý và hoạt động sống, mà kết quả của quá trình đó
đã dẫn đến sự biến đổi vật chất bên trong và ra hoa kết quả.
Theo Ghenken (1960): Sự phát triển là quá trình biến đổi về
chất cần thiết xảy ra trong tế bào và quá trình hình thành cơ quan
mới mà cây phải trải qua kể từ khi tế bào trứng được thụ tinh cho
đến khi hình thành tế bào sinh sản mới.
Theo D.A.Xabinin (1963): Sự phát triển là sự biến đổi chất
trong quá trình tạo ra các cấu trúc mới của cơ thể, do đó nó có thể
thực hiện được chu kỳ sống của mình.
Theo Bonnơ (Bonner 1968): Sự phát triển là quá trình biến đổi
sâu sắc trong tế bào trứng đã được thụ tinh nhờ sự phân chia liên
tục của nó mà có được các kiểu tế bào riêng biệt (phân hóa tế bào)
đặc trưng cho cơ thể trưởng thành.
Theo quan điểm của di truyền học hiện đại thì sự phát triển cá
thể là quá trình thực hiện dần các chương trình di truyền đã được
mã hóa trong phân tử ADN trong quá trình phát triển cá thể. Chính
vì vậy không nên coi sự phát triển chỉ là quá trình dẫn đến ra hoa
kết quả đơn thuần, mà đó chỉ là một biểu hiện rõ nhất về sinh lý và
hình thái của cây mà thôi. Cho nên sự ra hoa, ra qủa đó là một biểu
hiện rõ nhất của sự phát triển hay còn gọi là biểu hiện đặc trưng
của sự phát triển.
6.1.3. Mối quan hệ giữa sinh trưởng và phát triển.
Sự sinh trưởng và phát triển là biểu hiện về sự biến đổi về
lượng và về chất của cơ thể thực vật trong chu kỳ sống của chúng.
Trên quan điểm duy vật biện chứng thì sự biến đổi về lượng là cơ
3
sở của sự biến đổi về chất, cũng như sự sinh trưởng về kích
thước, trọng khối và hình thành các yếu tố cấu tạo mới là tiền đề
cho sự phát triển và ngược lại sự phát triển là quá trình biến đổi về
chất bên trong dẫn đến sự ra hoa kết quả lại thúc đẩy sự sinh
trưởng. Như vậy giữa sinh trưởng và phát triển có mối quan hệ rất
mật thiết với nhau. Ðây là hai mặt của một quá trình biến đổi sinh
lý, sinh hóa và hình thái của cây có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau và
không thể tách rời ra được.
Tuy nhiên hai quá trình đó không phải lúc nào cũng đồng
nhất. Sinh trưởng và phát triển yêu cầu các yếu tố ngoại cảnh
không giống nhau, vì vậy hai quá trình này có thể xảy ra không
đồng nhất, sự không đồng bộ ấy có thể ghép vào ba trường hợp
sau đây:
- Sinh trưởng tốt, phát triển chậm (chậm ra hoa kết qủa).
- Sinh trưởng xấu, phát triển sớm (sớm ra hoa kết quả).
- Sinh trưởng và phát triển cân đối.
Trong trồng trọt cũng thường thấy trên nhiều thửa ruộng bón
nhiều phân, nhất là phân đạm hoặc đất quá tốt và tưới nhiều nước
cho cây, cây trồng sinh trưởng thân lá rất mạnh, màu lá xanh biếc,
nhưng ra hoa muộn và thường cho năng suất thấp. Hoặc trong
trường hợp không bón đạm hoặc đất nghèo dinh dưỡng và không
tưới nước cho cây dẫn đến cây sinh trưởng còi cọc, nhưng ra hoa
sớm.
Trong thực tế sản xuất chúng ta cần điều khiển ruộng cây
trồng sinh trưởng và phát triển cân đối, đó là tác động các biện
pháp kỹ thuật như thời vụ gieo trồng, bón phân, tưới nước... hợp lý
nhằm làm cho cây trồng ra hoa đúng thời vụ và đạt năng suất cao.
6.2. Cơ quan tiến hành sinh trưởng của cây.
6.2.1. Các mô phân sinh.
Quá trình sinh trưởng của cây được tiến hành ở các mô phân
sinh do mô thường xuyên tăng số lượng tế bào. Trong cây có 3 loại
mô phân sinh.
* Mô phân sinh đỉnh (sinh trưởng dọc)
Sinh trưởng đỉnh do mô phân sinh đỉnh đảm nhận. Mô phân
sinh đỉnh có ở đầu ngọn, đầu cành và rễ, ở đó luôn có quá trình
phân chia tế bào. Số lượng tế bào ở mô phân sinh đỉnh thường
4
xuyên tăng lên kèm theo sự tăng kích thước tế bào. Dẫn đến làm
tăng chiều cao của cây, chiều dài của cành và rễ.
* Mô phân sinh lóng, đốt
Các loại cây có cấu tạo dạng lóng, đốt như mía, tre, nứa... thì
ở phần gốc của lóng, đốt có mô phân sinh lóng. Mô phân sinh lóng
thường xuyên phân chia tế bào, làm tăng số lượng và kích thước tế
bào, dẫn đến tăng chiều dài của các lóng, đốt và chiều cao cây,
chiều dài cành.
* Mô phân sinh tượng tầng (sinh trưởng ngang)
Sinh trưởng ngang do mô phân sinh tượng tầng đảm nhận.
Ðây là loại mô đặc trưng cho các loại thân gỗ. Mô này nằm giữa
phần libe và gỗ ở trong bao bó mạch của cây. Mô phân sinh tượng
tầng làm tăng số lượng tế bào. Tạo ra bên ngoài là libe và bên
trong là phần gỗ, giúp cây to về bề ngang.
6.2.2. Sự sinh trưởng và sự phân hóa của tế bào.
Sự sinh trưởng và phát triển của cơ thể thực vật cũng như
của các mô, cơ quan gắn liền với sự sinh trưởng và phát triển của
mỗi tế bào.
Tế bào thực vật được hình thành bằng con đường phân chia
trong các mô chuyên hóa gọi là mô phân sinh. Sau đó các tế bào
tăng kích thước và thể tích nhanh chóng trong các vùng giãn và
cuối cùng được phân hóa thành các mô chức năng đảm nhiệm các
chức năng sinh lý riêng biệt gắn liền với sự thay đổi về cấu trúc đặc
trưng cho các mô. Rõ ràng, mỗi tế bào thực vật cũng được sinh ra,
lớn lên, hóa già và cuối cùng cũng chết phù hợp với chu kỳ phát
triển của cây. Sự sinh trưởng của tế bào trải qua 3 pha: pha phân
chia, pha lớn lên và pha phân hóa.
6.2.2.1. Pha phân chia tế bào.
Sự sinh trưởng của tế bào bắt đầu bằng sự phân chia tế bào
trong các mô chuyên hóa gọi là mô phân sinh.
Sự phân chia tế bào xảy ra qua hai bước kế tiếp: Sự phân chia
nhân (mitoz) trong đó có sự phân chia nhân thành hai nhân và sự
phân bào (xytokinez) là sự phân chia tế bào hai nhân thành hai tế
bào một nhân.
Trước khi xảy ra phân chia nhân thì đòi hỏi nhân đôi lượng
ADN của tế bào mẹ, tức là nhân đôi tất cả lượng thông tin di truyền
mà tế bào mẹ vốn có. Chính vì vậy mà sự tổng hợp ADN xảy ra rất
5
mạnh mẽ trong tế bào phôi sinh. Sau đó nhân được phân chia thành
hai nhân.
Giai đoạn tiếp theo là sự phân bào: Một màng mỏng
polisaccarit xuất hiện ở giữa tế bào. Nguồn gốc của lớp màng tế bào
này là từ bộ máy Golgyl và Lưới nội chất. Lớp màng này nhanh
chóng tăng trưởng để đạt đến thành tế bào chia đôi tế bào mẹ hai
nhân thành hai tế bào con một nhân.
Ðặc trưng chung của tế bào trong pha phân chia là tế bào bé,
đồng nhất, có kích thước như nhau, thành tế bào mỏng, toàn bộ
thể tích tế bào chứa chất nguyên sinh và nhân to, chưa xuất hiện
không bào. Số lượng tế bào được tăng lên nhanh chóng, nhưng
kích thước tế bào chỉ tăng gấp đôi, vì kích thước tế bào đạt như tế
bào mẹ thì sự phân chia tế bào lại xảy ra. Ðể cho quá trình phân
chia tế bào thuận lợi thì trước hết phải có phytohormone hoạt hóa
sự phân chia tế bào, đó là cytokinine, ngoài ra các chất như auxin,
giberellin cũng có vai trò kích thích nhất định sự phân chia tế bào.
Mặt khác điều kiện ngoại cảnh cũng ảnh hưởng tới sự phân chia tế
bào, đặc biệt các yếu tố như nước, nhiệt độ, các chất dinh
dưỡng....
6.2.2.2. Pha lớn lên của tế bào.
Ðây là giai đoạn tế bào tăng nhanh về kích thước và khối
lượng. Ðặc trưng của pha này là bắt đầu xuất hiện không bào. Ban
đầu không bào có kích thước nhỏ và số lượng nhiều. Sau đó các
không bào nhỏ liên kết lại với nhau thành không bào to hơn và các
không bào to hơn tập hợp thành một không bào trung tâm duy
nhất. Không bào trung tâm lớn nhanh và đẩy chất nguyên sinh và
nhân ra sát thành tế bào. Kích thước của tế bào tăng lên rất nhanh
chóng. Sự giãn nhanh chóng của tế bào là kết quả của hai hiệu
ứng: Sự giãn thành tế bào và sự tăng thể tích không bào và chất
nguyên sinh gắn liền với quá trình sinh tổng hợp các vật liệu cần
thiết cho xây dựng thành tế bào và chất nguyên sinh. Chẳng hạn
tăng cường tổng hợp cellulose, hemicellulose, pectin...để tạo nên
các lớp vỏ tế bào mới và giãn thành tế bào cũ; Tăng cường sinh
tổng hợp protein để tăng khối lượng chất nguyên sinh và các bào
quan... Ngoài ra, sự hấp thu nước thẩm thấu của không bào có ý
nghĩa quan trọng, tạo nên lực đẩy lên thành tế bào làm cho các vi
sợi cenlulose vốn bị cắt đứt lực liên kết với nhau có điều kiện trượt
lên nhau mà giãn ra.