Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Bài giảng cây công nghiệp dài ngày
PREMIUM
Số trang
170
Kích thước
4.5 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
816

Bài giảng cây công nghiệp dài ngày

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ

DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN

BÀI GIẢNG

CÂY CÔNG NGHIỆP DÀI NGÀY

Người biên soạn: ThS. Đinh Xuân Đức

Huế, 08/2009

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ

DỰ ÁN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM - HÀ LAN

***************

BÀI GIẢNG

CÂY CÔNG NGHIỆP DÀI NGÀY

NGƯỜI BIÊN SOẠN: Ths. Đinh Xuân Đức

Huế, 2008

2

Bài 1: NGUỒN GỐC, PHÂN LOẠI,GIÁ TRỊ KIN H TẾ CỦA CÁC CÂY

CÔNG N GHIỆP DÀI NGÀY CAO SU, CÀ PHÊ, CHÈ.

I. NGUỒN GỐC, PHÂN LOẠI, GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA CÂY CAO SU

(Hevea brasiliensis. L).

1. Nguồn gốc

Cây cao su có nguồn gốc từ Nam Mỹ, mọc trên một địa bàn rộng 5 đến 6 triệu

km2

, thuộc toàn bộ lưu vực sông Amazon và vùng kế cận, giữa hai vĩ tuyến 130B-130N

(Nguyễn Khoa Chi, 1985). Theo Nguyễn Thị Huệ (1997), phạm vi phân bố của cao su

hoang dại chỉ trong khoảng vĩ độ 50

Bắc và Nam. Nó được nhận ra bởi thổ dân vùng

Amazôn từ lâu. Tuy nhiên, cho đến cuối thế kỷ XV những người Châu Âu đầu tiên đến

đây mới biết chúng, Christophe Colombo phát hiện vào giai đoạn 1493-1496. Mãi đến

thế kỷ XVII mới có những công trình nghiên cứu thêm về cây cao su, do La

Condamine và Fresneau thực hiện. Sau đó nhờ có phát hiện thêm của Goodyear vào

năm 1999 về việc lưu hóa mủ cao su. Từ đó, cao su nhanh chóng trở thành hàng hóa.

Bắt đầu, mủ cao su chỉ được khai thác từ cây cao su rừng ở Brazil. Trong suốt

cuối thế kỷ XIX Brazil luôn giữ thế độc quyền về sản phẩm của cây này. Tuy nhiên,

vào năm 1875 Collins, (người Anh) lần đầu tiên lấy trộm được 2.000 hạt, đem gieo

mọc được 12 cây và trồng ở Calcutta - Ấn Độ. Nhưng đã bị chết hết. Sau đó một năm

(14/06/1876) Henry Wickham(người Anh), cũng lấy trộm được hơn 70.000 hạt đem

gieo tại vườn bách thảo Kew, London mọc được 24 cây. Số cây này được đem trồng tại

Colombo - Srilanka. Từ nguồn này cao su phát triển lan rộng khắp vùng Đông Nam Á,

Châu Phi và trở lại Châu Mỹ. Trong đó vùng Đông Nam Á có diện tích trồng lớn nhất.

Mủ cao su trồng được thu hoạch lần đầu tiên từ 24 cây của Wickham vào năm

1884 tại Colombo - Srilanka. Nó là khởi đầu cho việc phá bỏ thế độc quyền của Brazil.

Những năm cuối thế kỷ XX, nhờ có sự hổ trợ của hiệp hội cao su thế giới (IRRDB) có

hơn 15.800 cây đầu dòng đã được thu thập từ khắp lưu vực sông Amazon (1974-1982)

đã làm phong phú thêm nguồn gen để bổ sung vào nguồn Wickham hiện có, nhờ đó mà

khả năng các giống được tạo ra sau này sẽ có nhiều ưu thế về năng suất và nhiều đặc

tính ưu việt khác.

2. Phân loại thực vật

Hevea brariliensis.L thuộc bộ ba mảnh vỏ, họ thầu dầu (Euphorbiaceae), loài

Hevea, với số nhiễm sắc thể lưỡng bội 2n=26,loại cây thân gỗ có tuổi thọ hơn 100 năm.

Trong họ thầu dầu có đến 10 loài cây cho mủ cao su, dưới đây là mô tả sơ lược

môt số loài Hevea khác Hevea brasiliensis (Nguyễn Thị Huệ, 1997).

+ H. benthamiana Cây cao trên 27m, gốc cây phình to, lá chét có lông tơ màu

nâu đỏ ở mặt dưới lá, khi ổn định lá nằm ngang hơi chúc xuống. Cây bắt đầu trổ hoa

khi lá rụng. Cây thường mọc ở vùng đất phù sa, ngập nước định kỳ vào mùa mưa ở dọc

3

bờ sông Amazon. Năng suất mủ cao su kém, chất lượng mủ tốt, có thể kháng được

bệnh SALB.

+ H. Camagoana: Cây nhỏ, cao từ 2-12m, mọc cạnh Cơ dòng chảy và vùng đầm

lầy. Hoa lưỡng tính, phần cuối hoa có màu hồng hoặc màu đỏ. Cây cho năng suất kém,

mủ trắng.

+ H. Camporum:Cây thấp chiều cao dưới 2m, chỉ tìm thấy ở vùng đầu nguồn,

vùng sa mạc, mủ trắng.

+ H. Guianensis: Loài này có vùng phân bố rộng nhất, cây cao 20-35m, thân hình

trụ, thường chỉ phân cành ở chiều cao 1/2 thân trở lên, tán lá rậm rạp, lá dựng đứng, lá

vẫn còn tồn tại khi cây nở hoa. Năng suất mủ kém, mủ màu hơi vàng, chất lượng mủ

thấp. Cây sinh trưởng tại Cơ vùng đất cao (đến 1.100m) và trên đất thoát nước tốt.

+ H. microphylla : Cây cao 18-20m, thân mảnh khảnh, gốc cây hơi to, phình ra,

vỏ cây màu đỏ nhạt, tán lá thưa thớt, lá rụng trước khi cây trổ hoa. Hoa cái to, hình

chuông.

+ H. nitida : Cây nhỏ đến trung bình, thân hình trụ, vỏ cây màu đỏ sậm. Lá chúc

xuống có màu xanh sáng, lá còn tồn tại khi cây trổ hoa, trái có màu đỏ nhạt. Mủ màu

trắng đậm đặc, chứa nhiều chất nhựa (resin), ít cao su. Cây thường mọc trên đất rừng,

thoát nước tốt, có thể phát triển tốt trên đất nghèo dinh dưỡng.

+ H. pauciflora : Cây lớn cao trên 25m, thân hình trụ, vỏ màu nâu đậm, lá vẫn

còn tồn tại khi cây trổ hoa. Mủ có màu trắng, chứa nhiều chất nhựa, ít cao su. Cây

thường mọc trên đất thoát nước tốt.

+ H. rigidifolia : Cây cao trung bình 12-18m, thân hơi nghiêng, vỏ màu xám

hung đỏ, lá dày mọc chúc xuống, lá vẫn còn tồn tại khi cây trỗ hoa. Mủ trắng, nhiều

chất nhựa, không chứa đủ cao su theo chất lượng thương mại đòi hỏi. Cây thường mọc

trên đất thoát nước tốt.

+ H. Sprucean:a Cây cao đến trên 25m, gốc cây hơi phình to ra, tán lá nặng, lá

mọc hơi chúc xuống, mặt dưới lá có lông tơ, lá vẫn còn tồn tại khi cây trỗ hoa. Mủ

trắng, ít cao su. Cây mọc trên đất thấp, ngập nước định kỳ ở dọc bờ sông.

Ngoài Hevea brasiliensis và 9 loài khác thuộc còn có trên 2.000 loài ở các họ

khác có thể cho mủ cao su và phần lớn sống trong vùng nhiệt đới. Trong số đó có thể

kể đến cây Parthenium argentatum (hay còn gọi là cây Guayule) thuộc họ Compositae,

mọc hoang dại ở Mehico. Sau chiến tranh thế giới II nó được trồng nhiều ở Liên Xô cũ,

Tây Ban Nha, Thổ Nhỉ Kỳ và Úc. Kế đó là Taraxachum korsaghyz, cũng thuộc họ cúc

(Compositae), được trồng nhiều ở Liên Xô cũ, Thụy Điển và Mỹ. Cuối cùng là một số

cây dây leo thuộc giống Landophia mọc ở châu Phi, Á và Madagasca. Loài Landophia

sp mọc ở châu Phi có nhiều triển vọng hơn cả. Nhưng cho đến nay chưa có một loài

nào có thể cạnh tranh được với cây Hevea brasiliensis

4

3. Công dụng, giá trị kinh tế - tình hình phát triển cao su

3.1. Công dụng và giá trị: Cây cao su từ khi trở thành hàng hóa công dụng của nó

ngày càng được mở rộng. Hiện nay mủ cao su trở thành 1 trong 4 nguyên liệu chính

của ngành công nghiệp thế giới. Nó đứng sau gang thép, than đá và dầu mỏ. Sản phẩm

cần dùng đến cao su có thể kể đến các loại sau: Cao su vỏ ruột xe chiếm 70% sản

lượng cao su thế giới, kế đó là cao su dùng để làm các ống, băng chuyền, đệm giảm

xóc, vật liệu chống mài mòn, các trang thiết bị hàng không, dụng cụ gia đình và dụng

cụ thể thao. Liệt kê có đến trên 50.000 công dụng của cao su (Nguyễn Khoa Chi,

1985).

Ngoài giá trị của mủ cao su, cây cao su còn có thể cung cấp một lượng gỗ lớn.

Trong điều kiện canh tác nông nghiệp với mật độ cây trồng 400cây/ha, sau 14 năm

trồng cây cao su có thể cho từ 0,30-0,55 m3

gỗ/cây tuỳ theo giống (Mai Văn Sơn,

2001). Khối lượng củi có thể thu khoảng 30-40% khối lượng gỗ (Nguyễn Thị Huệ,

1997). Giá gỗ cao su có thể giao động từ 600-900 USD/m3

.

Hàng năm, sau năm thứ 7 cây cao su có thể cung cấp khoảng 200-300 kg hạt/ha

với hàm lượng dầu khoảng 10-20% trọng lượng hạt và lượng protein đáng kể trong hạt.

Dầu cao su cũng có thể được sử dụng trong công nghệ sơn, vecni, xà phòng, làm chất

độn pha thuốc kích thích mủ cao su, hoặc nếu được xử lý thích hợp có thể dùng làm

dầu thực phẩm. Cuối cùng việc trồng cao su có thể đem lại những lợi ích về môi

trường, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chống xói mòn đất, ổn định xã hội thông qua

việc tạo ra nhiều công ăn việc làm và là môi trường tốt để chăn nuôi ong.

Về giá trị thương mại của mủ cao su thiên nhiên là loại nguyên liệu độc quyền

trong thời gian đầu của thế kỷ này. Tuy nhiên, sau chiến tranh thế giới II do có sự xuất

hiện của cao su nhân tạo là sản phẩm của dầu mỏ, cao su thiên nhiên đã bị cạnh tranh

gay gắt trong nhiều thập kỷ. Cho đến nay tỉ lệ sản xuất hai loại cao su đã giữ ở mức ổn

định là 32/68 (NR/SR) (Nguyễn Khoa Chi, 1985). Giá mủ NR (natural rubber) thường

giao động và ở mức thấp nhất là 226 USD cho 1 tấn mủ khô tại thị trường New York

năm 1930 và cao nhất là 3.079 USD/tấn tại thị trường Singapor năm 1980. Từ 1980

đến 1995 giá cao su bình quân cho từng loại sản phẩm cao su là: 998$ cho RSS1;

957,3$ cho RSS3; 1103,8$ cho SMRL và 934,7$ cho SMR20. Sự biến động giá mủ

cao su không chỉ xảy ra giữa Cơ loại mủ được chế biến khác nhau mà trong từng loại

cũng có sự biến động lớn theo thời gian, ví dụ giá cao su RSS1 năm 1985 là 745,5$ và

tăng lên 1.563,9$ vào năm 1995; RSS3 giá là 710,6$ vào năm 1985 và tăng lên

1.574,4$ năm 1995; cho SMRL và SMR20 là 807,9$ và 685,8$ vào năm 1985 và

1750,9$ và 1521,7$ vào năm 1995, một cách tương ứng. Trong cùng một năm giá cao

su cũng giao động giữa các thị trường khác nhau, ví dụ: Năm 1980 tại thị trường

Singapor giá là 3.079$ trong khi tại thị trường New York giá chỉ có 1.625$ cho một tấn

mủ khô (Nguyễn Thị Huệ, 1997). Tuy nhiên, giá cao su thường không cho những biến

5

động quá lớn trong một khoảng thời gian ngắn (10 năm) như giá của một số sản phẩm

cây công nghiệp khác như hạt tiêu và cà phê. Có lẻ nó là nguyên liệu chính cho công

nghiệp nên ngày càng phát triển và khá ổn định. Nhìn chung giá cao su không cao nếu

so với cà phê hay tiêu khi được so sánh trên cùng một khối lượng sản phẩm.

3.2.Tình hình phát triển: Trên thế giới, vào đầu thế kỷ XX Brazil đã bị mất thế độc

quyền xuất khẩu cao su. Ba nước Anh, Pháp và Hà Lan là những nước trồng cao su

đứng đầu trong giai đoạn đó. Tuy nhiên, cao su chỉ được trồng trên các thuộc địa của

các nước này, chủ yếu thuộc vùng Đông Nam Á. Càng về sau sản lượng cao su xuất

khẩu tại khu vực này càng lớn. Đến nay đã có đến hơn 90% cao su xuất khẩu từ vùng

này. Các nước sản xuất cao su hàng đầu thế giới là Malaysia (1.539 nghìn tấn),

Indonexia(1.034 nghìn tấn), Thailand (782 nghìn tấn), nguồn: IRSG statistical Bul,

Apr.1986.

Trong giai đoạn từ 1985 đến 1995 sản lượng mủ cao su thế giới tăng đều đặn từ

4,335 triệu tấn năm 1985 lên đến 5,870 triệu tấn 1995. Giữa các nước sản xuất cao su

hàng đầu cũng có sự biến động về ngôi thứ. Trong giai đoạn từ 1985 đến 1995

Malaysia giảm liên tục từ 1,469 triệu tấn xuống còn 1,089 triệu tấn, trong khi

Indonexia có sản lượng gia tăng đều đặn từ 1,130 triệu tấn năm 1985 lên 1,456 triệu tấn

năm 1995, Thái Lan cũng có sự gia tăng từ 0,725 triệu tấn lên 1,784 triệu tấn trong

những năm tương ứng. Hai nước Ấn Độ và Trung Quốc có sản lượng tăng gấp 2 đến 3

lần so với 1985 và được xếp ở vị trí thứ 4 và 5 trong bảng xếp hạng. Tổng diện tích cao

su thế giới trong năm 1995 là 9,759 triệu ha. Sự gia tăng sản lượng cao su xuất phát từ

sự gia tăng về diện tích và quan trọng hơn là sự gia tăng về năng suất mủ trên 1 ha nhờ

vào những cải tiến kỹ thuật đáng kể trong thời gian gần đây.

Tuy là khu vực sản xuất cao su lớn nhất thế giới, mức tiêu thụ cao su ở đây vẫn

kém rất xa so với châu Âu, châu Mỹ, Trung Quốc và cộng đồng SNG. Hầu hết các

nước tiêu thụ mạnh đều là những nước công nghiệp phát triển.

Về năng suất, cao su ở các nước biến động theo từng thời kỳ và phụ thuộc nhiều

vào việc ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất. Những thay đổi dẫn đến sự cải thiện

năng suất tại những khu vưc như thế là do sự cải thiện về giống và công nghệ khai

thác. Trong những năm đầu thế kỷ XX năng suất cao su khô trên 1 ha thường là 300-

400kg. Đến nay năng suất bình quân 1.200 kg/ha/năm. Tuy nhiên, trong nhiều khu vực

năng suất cao su có thể đạt đến 2.000kg/ha/năm.

Trong nước, cây cao su đã phát triển với lịch sử hơn 100 năm, chỉ chậm hơn thế

giới 20 năm. Cây cao su đầu tiên được đưa vào Việt Nam vào năm 1877 do Pierre

trồng tại vườn bách thảo Sài Gòn nhưng bị chết. Mãi đến 1897 Raoul lấy hạt giống từ

Java về gieo tại vườn ông Yệm tại Thủ Dầu Một và chuyển cây con cho Bác sỹ Yersin

để thành lập đồn điền đầu tiên tại Suối Dầu - Nha Trang. Sau đó, Bác sỹ Yersin đã

nhiều lần nhập hạt giống từ Colombo để lập vườn. Từ đó cao su đã được thực dân Pháp

6

Bảng 1.1: Tình hình sản xuất và tiêu thụ cao su thiên nhiên trên thế giới

Năm 2002 2003 2004 2005 2006

Sản xuất (1000tấn) 7.260 8.003 8.708 8.882 9.255

Tiêu thụ (1000tấn) 7.410 8.033 8.581 8.994 8.968

Nguồn : IRSG 2007

trồng trên nhiều đồn điền tại Đông Nam Bộ và Quãng Trị. Một thời gian bị gián đoạn

do chiến tranh, diện tích cao su bi hư hỏng nhiều hơn là diện tích trồng. Đến sau năm

1975 chúng ta chỉ tiếp quản chừng 87.000ha diện tích cao su nhưng gồm chủ yếu là cao

su già gần hết chu kỳ kinh doanh. Cho đến nay tổng diện tích cao su đã lên đến gần

400.000ha và có mặt trong ba vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và duyên hải miền

Bảng 1.2: Diện tích cao su Việt nam qua Cơ thời kỳ

Năm Diện tích (ha) Năm Diện tích (ha)

1920 7.000 1975 60.000

1930 9.100 1985 135.000

1945 138.000 1995 275.000

1961 142.770 2005 478.600

(Nguồn: Mai Văn Sơn 2005)

Bảng 1. 3: Kế hoạch trồng cao su đến 2010 ( ha)

Thành phần

kinh tế

Cả nước Đông Nam bộ

Tây Nguyên

Duyên hải miền

Trung

Qu ốc doanh 300.000 185.000 100.000 15.000

Li ên doanh 50.000 15.000 35.000 -

Tư nh ân 350.000 73.000 215.000 62.000

Cộng 700.000 273.000 350.000 77.000

(Nguồn: Mai Văn Sơn 2005)

Trung (Mai Văn Sơn, 2001), với năng suất bình quân trên 1.200kg/ha/năm.

Hiện nay với khuynh hướng mở rộng diện tích trồng cao su trên hầu khắp các tỉnh

miền Trung, nhiều Công ty cao su mới tại các tỉnh từ Tuy Hoà đến Nghệ An đã được

7

thành lập. Bên cạnh đó, cao su tiểu điền với công nghệ sơ chế mủ đơn giản và hoàn

thiện đã và đang được khuyến khích phát triển tại nước ta. Lợi ích của sự đẩy mạnh

phát triển này nhằm tận dụng nguồn tiềm năng đất đai sẵn có, nhân lực dồi dào và sự

ổn định dân cư trong các vùng đồi, núi. Chủ trương của chính phủ diện tích cao su của

nước ta có thể nâng lên đến 700.000 ha trong đó những vùng chủ yếu để mở rộng diện

tích là Tây Nguyên và duyên hải miền Trung Việt Nam.

II. NGUỒN GỐC, PHÂN LOẠI, GIÁ TRỊ KIN H TẾ CỦA CÂY CÀ PHÊ

( Coffea. L).

1. Nguồn gốc, sự phân bố

Khi nghiên cứu hệ thực vật hoang dại các nhà khoa học đã khẳng định cây cà

phê được phát hiện cách đây hàng nghìn năm, chúng thường mọc dưới tán nhiều khu

rừng thưa thuộc châu Phi. Tới năm 575 sau Công Nguyên mới được đưa về trồng thuần

hoá, đến ngày nay hiện có 3 loài cà phê thương mại và được di thực nhập nội tới nhiều

nước trên thế giới.

* Loài Coffea arabica (cà phê chè)

Có nguồn gốc từ Ethiopya và hai vùng phụ cận là cao nguyên Buma thuộc

Sudan và phía Bắc Kenya. Các vùng này có độ cao từ 1.200-2.000m và nằm giữa 70

–9

0

vĩ Bắc. Theo Beuthaud và Charieu 1985 cà phê chè từ Ethiopya được đưa tới Yemen

sang Java năm 1690, đến Amsterdam (Hà Lan) năm 1706; sang Trung Mỹ, sang

Colombia năm 1724. Từ Yemen sang Brazin (Nam Mỹ) năm 1715 và từ Java sang

PaPua New Ghine năm 1700.

* Loài Coffea canephora Pierre (cà phê vối) và loài Coffea liberica Bull (cà

phê mít, dâu da).

Có nguồn gốc từ một số nước thuộc Tây và Trung Phi. Cà phê vối từ Tây Phi và

Madagatxca đưa sang Nam Mỹ và Amsterdam năm 1889. Sau đó từ Amsterdam đưa

sang Java năm 1900 sau đó lại từ Java đưa trở về châu Phi năm 1912.

Do giá trị kinh tế cao, là thức uống thơm ngon hợp khẩu vị của nhiều dân tộc

trên thế giới nên cà phê đã được trồng trên 75 nước thuộc vùng nhiệt đới.

* Cây cà phê ở Việt Nam

Hiện nay cây cà phê là cây trồng nông nghiệp đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn

thứ hai sau cây lúa. Cây cà phê sau khi du nhập đã phát triển bền vững ở Việt Nam đến

nay đã 151 năm (từ 1857). Năm 1870 tại tu viện Kẻ Sở (Kim Bảng, Hà Nam) bắt đầu

trồng thử. Năm 1888 sau 30 năm nhập nội và trồng thử cây cà phê đã được trồng trên

quy mô sản xuất do nhiều người Pháp lập đồn điền như: Borel Leconte ở Chi Nê tỉnh

Hoà Bình, Condoux-Gombert ở tỉnh Nghệ An, Michel Philip ở tỉnh Quảng Trị, Rossi￾Delfante ở tỉnh Đắk Lắk.

8

Những năm sau đó cà phê được trồng ở Trung du Bắc Bộ như: Cổ Nghĩa, Đồng

Lăng, Cốc Thôn tỉnh Hà Nam. Ba Vì, Phú Mãn, Hoà Mục tỉnh Hà Tây, Phú Hộ tỉnh

Phú Thọ. Đến năm 1920-1925 sau khi phát hiện ra vùng đất Bazan ở Tây Nguyên,

người Pháp đã bắt đầu trồng cà phê trên vùng đất này. Sau nhiều năm cây cà phê đã

phát triển nhanh ở hầu hết các vùng trước đây đã trồng và mở rộng ra nhiều tỉnh khác

với quy mô ngày một tăng.

2. Sơ lược phân loại

Việc phân loại cây cà phê đến nay vẫn theo cách phân loại của Linne (1937).

Theo Linne cây cà phê thuộc loài cà phê coffea.L họ cà phê Rubiacea, bộ cà phê

Rubiales. Năm 1947 theo giáo sư Auguste Chevarier trong tự nhiên có tới 70 loài phụ

trong Coffea, trong đó có rất ít loài có giá trị kinh tế và ông chia thành 4 nhóm:

Nhóm Eucoffea K.Schum, Argocoffea Piere, Mascarocoffea và Paracoffea Miq.

Ba nhóm đầu có nguồn gốc duy nhất ở châu Phi.

Nhóm Paracoffea có hai loài mọc hoang ở Việt Nam là Coffea dongnaiensis

P.ex.Pit và Coffea Cochinchinensis P.ex.Pit. Nhóm này được xác định có nguồn gốc tại

các nước Đông Dương và Ấn Độ.

Nhóm Eucoffea K.Schum chỉ có một số loài có Cafein chúng có tầm quan trọng

về kinh tế và được trồng trọt. Nhóm Eucoffea K.Schum được chia thành 5 nhóm phụ

dựa trên một số chỉ tiêu như cây cao to (Nanocoffea), lá dày (Pachycoffea). Màu sắc

của quả (Erytrocoffea). Phân bố theo điều kiện địa lý (Mozambicoffea) gồm các loài

tương ứng ở bảng 1.4.

Như vậy: Các giống cà phê đang được trồng và có giá trị kinh tế lớn thuộc hai

nhóm phụ (1) và (2).

Số nhiễm sắc thể cơ bản của chi Coffea là n =11, đặc trưng cho tất cả các chi khác

thuộc họ Rubiaceae (Suybenga, 1960). Hầu hết các loài thuộc chi Coffea là những loài

nhị bội (2n=22) và đều là những cây hoàn toàn không có khả năng tự thụ phấn. Riêng

chỉ có loài cà phê chè (Coffea arabica) là loài tứ bội (2n=44) và có khả năng tự hợp và

là cây tự thụ phấn.

Các nghiên cứu của Dennarly (1975), Chevalier (1978), Lorearn (1982) đều cho

thấy tất cả các loài nhị bội của chi Coffea đều có cấu trúc nhiễm sắc thể giống nhau và

xuất phát từ một nguồn gen chung. Nhưng trong quá trình tiến hoá theo những hướng

khác nhau về địa lý, môi trường sống v.v. nên dần có sự biệt hoá để hình thành các loài

khác, chúng thể hiện khả năng thích nghi của mỗi loài, như C. canephora và C.

liberica thích hợp ở những vùng thấp, nóng ẩm và có lượng mưa nhiều. Loài C.

arabica tại các vùng nguyên sản sống dưới những tán rừng, quanh năm có ẩm độ

không khí cao và trên độ cao từ 1.200-1.800m. Tuy có sự biệt hoá nhưng giữa chúng

vẫn có khả năng lai tạo khác loài, trong tự nhiên khả năng tạp giao giữa chúng ít xảy ra

9

vì sự phân bố địa lý và thời gian ra hoa khác nhau.

Bảng 1.4: Các nhóm phụ và loài trong chi Coffea

Nhóm phụ Cơ loài

1- Erythrocoffea

C. arabiaca Linne

C. canephora Piere ex Froehner

C. congnsis Frochner

C. liberiaca Bull ex Hiern

C. derrei de Wild var.Excelsa Chev

2- Pachycoffea C. klainii Pierre

C. abeokutae Cramer

C. oymensis Chev

3- Nanocoffea

C. humilis Chev

C. brevipes Hiem

C. togoensis

4- Melanocoffea

C. stenophyla G.Dun

C. carrisoi Chev

C. mayombensis

5- Mozabicoffea

C. chumania

C. eugenodes

C. kivuensis

C. munfindiensis

C. zanguebariae

C. racemosa Lour

C. liguisdes Moore

C. salvatrix Swyn & Phil

Kết quả nghiên cứu của Demarly (1975) thể tứ bội ở loài C. arabica là một thể đa

bội tạp, bộ gen của loài này được hình thành từ 2 bộ gen của 2 loài nhị bội khác nhau

hợp thành. Một bộ của loài C. canephora, bộ thứ 2 chưa được xác định rõ, nhưng

chúng có mối quan hệ gần gũi với loài nhị bội khác được giả định là C. liberica hoặc

C. congensis.

Đặc điể m một số loài và giống cà phê

+ Loài cà phê chè (Coffea arabica)

10

*Giống Typica (Coffea arabica L.var Typica): Có nhiều ở Brazin và một số

nước Châu Mỹ La tinh. Typica được tìm thấy sớm, là giống có phẩm chất thơm ngon

bậc nhất trong các giống cà phê chè thương mại. Trong điều kiện tự nhiên cây có chiều

cao tới 5m. Tán cây hình chóp nón, dạng trung bình. Lá non có màu tím hơi tối hoặc

màu đồng nhạt. Phiến lá thon nhỏ, đuôi lá dài nhọn hình mũi mác, mép lá ít gợn sóng.

Cành cơ bản (cành ngang, cành quả) yếu, buông rủ tạo với thân cây một góc trên 800

.

Trên cành có nhiều cành thứ cấp nhỏ yếu (cành tăm hay cành nhớt). Lóng đốt của cành

ngang dài, số hoa, quả trên mỗi đốt rất ít biến động khoảng 5-10. Quả và hạt to, dạng

quả hơi dài, quả khi chín có màu đỏ. Typica thích hợp với vùng khí hậu ôn hoà, mát,

cường độ ánh sáng yếu, mẫn cảm với bệnh gỉ sắt (Hemileia vestatrix B&Br), bệnh đốm

mắt cua (Cercospora Coffeicola), nấm hồng (Corticicum salmonicolor), năng suất thấp

nên đang bị thay thế bằng các giống khác

*Giống Bourbon (Coffea arabica L.var Bourbon): Do giống Typica biến dị,

trong điều kiện tự nhiên tại Việt Nam cây có chiều cao 3-4m, tán cây hình trụ không

khít tán, dạng trung bình. Lá non xanh nhạt, phiến lá dạng bầu, đuôi lá ngắn, mép lá

gợn sóng. Cành cơ bản khoẻ, hợp với thân một góc nhỏ hơn 800

, có khả năng phân

cành thứ cấp nhiều (7 cấp). Lóng đốt trung bình, số hoa, quả trên đốt cao hơn giống

Typica biến động từ 10-20, nhưng quả và hạt có kích thước nhỏ hơn, dạng quả hơi hình

cầu, quả chín màu đỏ. Bourbon là giống có chất lượng thơm ngon, thích hợp với khí

hậu ôn hoà, cường độ ánh sáng vừa, mẫn cảm với bệnh gỉ sắt, sâu bore dễ xâm nhập.

*Giống Catura (Coffea arabica L.var Catura): Là một dạng biến dị của giống

Bourbon được chọn lọc ở Brazin. Cây thấp khoẻ, chiều cao không quá 3m, tán cây hẹp

nên rất thích hợp mật độ trồng dày từ 5.000-10.000 cây/ha. Lóng đốt thân, cành ngắn,

khả năng phân cành thứ cấp nhiều. Số hoa, quả trên đốt nhiều từ 20-30 quả/đốt. Quả và

hạt có kích thước nhỏ hơn và dạng bầu gần giống dạng hạt cà phê vối (C. canephora).

Catura có hai dạng: Một dạng quả màu đỏ khi chín được gọi là Catura rojo và một dạng

quả vàng khi chín được gọi là Catura amarello. Catura có tiềm năng cho năng suất

nhưng cần thâm canh cao, dạng quả vàng cho năng suất cao hơn. Chất lượng nước

uống khá, gần được như Bourbon, có khả năng chịu hạn, thích hợp với cường độ chiếu

sáng mạnh và vùng có độ cao thấp, giống rất mẫn cảm với bệnh gỉ sắt, bệnh khô cành

khô quả (Colletotricum coffeanum Noak) hay còn được gọi là bệnh CBD (Coffee Berry

Disease). Giống Catura amarello được trung tâm nghiên cứu cây ăn quả Phù Quỳ-Nghệ

An chọn lọc còn gọi là giống PQII.

*Giống Catuai (Coffea arabica L.var Catuai): Là sản phẩm lai tạo giữa giống

Catura với giống Mundo novo (Mundo novo là cây lai tự nhiên giữa Bourbon và giống

Sumatra, trồng ở Việt Nam từ năm 1971). Đặc điểm hình thái tương tự Catura

amarello. Cây thấp, tán hẹp thích hợp mật độ trồng dày. Lá non màu xanh nhạt, phiến

lá bầu, mép lá gợn sóng nhiều. Lóng đốt ngắn, số hoa quả trên đốt tương đương giống

Catura, khả năng phân cành nhiều. Catuai có khả năng chịu hạn tốt hơn Catura, thích

11

hợp với điều kiện khí hậu những vùng có độ cao thấp, cường độ chiếu sáng mạnh, là

giống có tiềm năng cho năng suất cao và cần chế độ thâm canh cao. Catuai mẫn cảm

trung bình với bệnh gỉ sắt và bệnh khô cành khô quả. Những năm gần đây Cơ nước

châu Mỹ La Tinh trồng giống Catura và Catuai trên diện tích lớn.

*Giống Catimor (Coffea arabica L.var Catimor): Giống Catimor là giống được

lai tạo giữa Hibrido de Timor (cây khác loài) với giống Catura, do Trung tâm nghiên

cứu bệnh gỉ sắt Oeiras - Bồ Đào Nha và Viện nghiên cứu cà phê Colombia. Tại Việt

Nam, Viện nghiên cứu cà phê Eakmat nhập thế hệ F4, F5 và chọn lọc là thế hệ F6.

Catimor có dạng cây thấp, để phát triển tự nhiên cao từ 2-3m (thâm canh tốt có thể cao

trên 3m). Tán cây hẹp, đường kính tán cây từ 1,2-1,5m thích hợp mật độ trồng dày

5.000 - 10.000 cây/ha. Hầu hết các đặc điểm hình thái gần như giống Catura rojo. Điểm

khác biệt rõ nhất là lá non có màu đồng nhạt. Phiến lá dày màu xanh đậm, mép lá gợn

sóng nhiều. Cành cơ bản khoẻ vươn thẳng hợp với thân một góc nhỏ hơn 800

, lóng đốt

ngắn từ 3-4cm, phân cành thứ cấp nhiều, quả thuộc loại trung bình, khi chín màu đỏ.

Trọng lượng 100 hạt từ 12-16g, tỷ lệ quả tươi/nhân biến động từ 5-7,5 tuỳ vào điều

kiện trồng. Catimor có tiềm năng cho năng suất rất cao, đòi hỏi thâm canh cao, có khả

năng chịu lạnh, kháng cao với bệnh gỉ sắt. Giống này đang được khuyến cáo để thay

một số giống cà phê chè khác.

Trên đây là 4 giống cà phê chè (Coffea arabica L.) hiện đang được trồng phổ biến

và có khối lượng xuất khẩu lớn trên thị trường cà phê quốc tế. Ngoài ra còn có một số

giống khác như giống Mundonovo, Moka...do có nhiều hạn chế nên ít được khuyến cáo

rộng rãi.

+ Loài cà phê vối (Coffea canephora Pierre): Cà phê vối được trồng phổ biến

trên nhiều nước, chiếm 30% tổng diện tích cà phê. Các nước trồng nhiều cà phê vối là

Camerun, Côtđivoa, Uganda, Madagasca, Ấn Độ, Inđônêxia, Philippin, Brazin, Việt

Nam. Tại Việt Nam được trồng nhiều ở Cơ tỉnh phía Nam, tập trung chủ yếu ở các tỉnh

Tây Nguyên và Đồng Nai.

*Giống Robusta (C. canephora var Robusta): Chiều cao cây tự nhiên cao từ 8-

12m. Cây to khoẻ, tán cây rộng, đường kính tán từ 2-2,5m, không thích hợp mật độ

trồng dày. Lá non màu xanh nhạt. Phiến lá to bầu hoặc hình mũi mác, đuôi lá nhọn,

chiều rộng lá từ 10-15cm, dài từ 20-30cm, mép lá ít gợn sóng hơn cà phê chè. Cành cơ

bản to khoẻ, vươn dài hợp với thân một góc lớn hơn 800

, khả năng sinh cành thứ cấp ít

hơn nhiều so với cà phê chè, lóng đốt dài, quả có dạng hình cầu hoặc hình trứng, cuống

quả ngắn và dai hơn cà phê chè nên ít bị rụng khi chín, quả chín có màu đỏ. Trọng

lượng hạt trung bình từ 13-16g (ở ẩm độ hạt 12%). Trọng lượng quả tươi/nhân biến

động từ 4-6kg. Năng suất thấp nhưng khả chống chịu sâu bệnh tốt hơn cà phê chè, tuy

nhiên kém chịu hạn. Vì vậy khi trồng ở Tây Nguyên phải tưới nước đủ ẩm cây mới

sinh trưởng tốt.

12

+ Loài cà phê mít, dâu da (Coffea liberia Bull): Trong loài này có hai dạng hình

chính là giống cà phê mít (C.liberica var dewevrei) thường được gọi là C. liberia var

Excelsa có nguồn gốc ở xứ Ubagui-Chari thuộc Trung Phi nên còn gọi là cà phê Chari.

Một dạng hình khác là C. liberia var liberica. Cả hai dạng hình này có giá trị thương

phẩm thấp nên không có mặt trên thị trường cà phê quốc tế.

3. Giá trị kinh tế: Cây cà phê có giá trị kinh tế về nhiều mặt, sản phẩm chính là hạt, gỗ

cũng đem lại nguồn lợi đáng kể cho người sản xuất. Ngoài ra trồng cà phê còn có ý

nghĩa trong cải tạo hệ sinh thái và thu hút được nhiều lao động nông nghiệp, tạo cơ sở

cho một số ngành công nghiệp phát triển.

+ Giá trị dinh dưỡng: Trong hạt cà phê khi phân tích có đầy đủ các hợp chất

như: protein, lipit, đường, tinh bột, xenlulô... đặc biệt là có cafein.

Cafein là một hợp chất mang tính độc ở nồng độ cao, ở nồng độ thấp có tác

dụng kích thích sự hoạt động của hệ thần kinh nên uống cà phê sẽ tỉnh táo khi bị mệt

mỏi, căng thẳng. Cafein còn kích thích sự hoạt động của hệ tiêu hoá. Mỗi loài cà phê

khác nhau có hàm lượng Cafein khác nhau. Loài cà phê C. Arabica (cà phê chè) có

hàm lượng từ 1,8-2,0%, loài cà phê Canephora robusta (cà phê vối) từ 2,5-3,0%, cà

phê C. Liberia (cà phê mít), dâu da từ 1,05-1,15%.

Ngoài ra có một số loài cà phê không có Cafein như loài Coffea Luxifolia,

Coffea Mongenetii, các loài này có thể làm thức uống có hương vị cà phê dùng cho

người bệnh hoặc làm vật liệu lai tạo khi cần thiết.

+ Giá trị xuất khẩu: Cà phê là loại thức uống có chất lượng cao, thơm ngon nên

người uống cà phê ngày một gia tăng. Hầu hết các nước châu Âu và một số nước ở các

châu lục khác dùng cà phê làm thức uống hàng ngày. Mức tiêu thụ của các nước Bắc

Âu rất lớn, bình quân là 12,5 kg/người/năm, trong đó: Thuỵ Điển là 13,5kg, Đan Mạch

11,8kg. Các nước khác như Đức là 7,4kg, Hunggari 3,5kg, Pháp 5,2kg, Tây Ban Nha là

4,2kg. Nước Mỹ có mức nhập và tiêu thụ lớn, bình quân là 6,2kg/người/năm. Nhật Bản

có mức tiêu thụ là 3kg/người/năm, Colombia là 4,9kg, Brazin là 3,2kg, Indonexia và

Thái Lan là 0,5kg/người/năm

Nhìn chung số người uống cà phê trên toàn thế giới tăng nhanh. Chính vì vậy giá

trị xuất khẩu của cà phê luôn có vị trí quan trọng trong các mặt hàng nông sản xuát

khẩu. Giá trị xuất khẩu của cà phê ở Việt Nam lớn hơn nhiều so với Ca cao và Chè.

Trung bình 5 năm 1985-1989 giá trị xuất khẩu cà phê mỗi năm là 10,5 tỷ USD trong

khi với Ca cao là 3,3 tỷ USD, Chè là 2,6 tỷ USD.

+ Giá trị trong công nghiệp và các giá trị khác

Ngoài việc sử dụng làm thức uống hàng ngày thì trong công nghệ thực phẩm cà

phê được chế biến thành rượu, bánh kẹo và làm nước giải khát có hương vị cà phê.

Trong công nghệ dược phẩm cafein được sử dụng làm thuốc điều trị bệnh.

13

Bảng 1.5: Thành phần hoá học của hạt cà phê

Thành phần hoá học Đơn vị tính Số lượng

Nước

Chất béo

Đạm

Protein

Caffein

Axit Clorogenic

Trigonenlin

Tanin

Axit Cafetanic

Axit Cafeic

Pantoza

Tinh bột

Dextrin

Đường

Xenlulô

Hemixenlulô

Lenhin

Tro

Trong đó có: Ca

P

Fe

Na

Mn

Rb

Cu, F

gr/100 gr

"

"

"

"

"

"

"

"

"

"

"

"

"

"

"

"

mg/100g

8-12

4-18

1,8-2,5

9-16

0,8-3

2-8

1-3

2

8-9

1

5

5-23

0,85

5-10

10-20

20

4

2,5-4,5

85-100

130-150

3-10

4

1,0-45

vệt

Nguồn: Hoàng Minh Trang, 1983

Sản phẩm phụ của quả cà phê là lớp thịt quả, lớp quả nhớt chiếm 62-67% khối

lượng quả trong đó có hàm lượng đường khá và nhiều hợp chất dinh dưỡng khác

nên được dùng làm thức ăn gia súc, làm nguyên liệu chế biến cồn, rượu làm phân

bón. Phần vỏ trấu dùng làm ván ép, làm nhiên liệu và làm giá thể trong sản xuất

nấm.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!