Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Áp dụng các công cụ toán tài chính vào việc quản lý danh mục đầu tư và ứng dụng trong thị trường
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Nhìn lại lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt,
mười mấy năm mở cửa, hội nhập, phát triển kinh tế đất nước tuy là quãng
thời gian không dài nhưng đó là cả một chặng đường lịch sử. Nó đã đánh
dấu những bước ngoặt trọng đại, những biến chuyển, đổi thay sắc nét. Mở
cửa và hội nhập, đó là phải nắm bắt và đi theo xu thế của thời đại- xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực với sự ra đời của tổ chức thương mại thế
giới WTO, của khối thị trường chung Châu Âu, của các khối thị trường
chung khác. Điều này đòi hỏi các quốc gia phải thúc đẩy phát triển kinh tế
với tốc độ nhanh nhưng phải đạt hiệu quả cao. Để làm được điều này buộc
các quốc gia phải có một lượng vốn tương đối lớn nhằm đảm bảo quá trình
trên được thực hiện thông suốt. Cũng chính vì những lý do trên mà cần phải
có cơ chế chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư cụ thể là từ những người có
vốn nhàn rỗi không có cơ hội đầu tư hoặc không biết đầu tư vào đâu sang
những người có cơ hội sinh lời nhưng lại thiếu vốn. Thị trường chứng khoán
là một bộ phận của thị trường tài chính ra đời như một tất yếu khách quan để
cơ chế đó được thực hiện.
Xây dựng và phát triển TTCK là mục tiêu đã được Đảng và Chính
phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu thập kỷ 90 - thế kỷ 20 nhằm
huy động một kênh vốn mới cho đầu tư và phát triển, tạo ra một bước phát
triển mới cho thị trường tài chính Việt Nam nói chung và nền kinh tế Việt
Nam nói riêng.
Trong thị trường chứng khoán, các công ty chứng khoán với vai trò
rất quan trọng là một định chế tài chính trung gian nhằm thực hiện các
nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán, nơi mà nghiệp vụ chuyên môn cao,
đội ngũ nhân viên lành nghề và bộ máy tổ chức phù hợp để thực hiện vai trò
trung gian môi giới mua- bán chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một
số dịch vụ khác cho cả người đầu tư lẫn tổ chức phát hành, đã-đang và sẽ
tích cực thực hiện nhiệm vụ của mình trong thị trường chứng khoán. Nhờ có
1
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
họ mà chứng khoán được lưu thông từ nhà phát hành đến nhà đầu tư và có
tính thanh khoản, qua đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và
của thị trường chứng khoán nói riêng.
Việc khai trương đưa Trung tâm GDCK thành phố Hồ Chí Minh đi
vào hoạt động (từ tháng 7/2000) đã đánh dấu một bước tiến trong quá trình
cải cách kinh tế ở Việt Nam, khẳng định quyết tâm phát triển kinh tế thị
trường của Đảng và Chính phủ trong tiến trình đổi mới. Sau 5 năm đưa thị
trường chứng khoán Việt Nam hoạt động, với mục tiêu ban đầu là đưa vào
vận hành một TTCK tập trung với quy mô thích hợp, phát triển từ thấp đến
cao và không gây mất ổn định kinh tế - xã hội, thị trường chứng khoán Việt
Nam đã bắt đầu thể hiện vai trò của mình.
Hiện nay (tháng 4 năm 2006), nước ta đã có 15 công ty chứng khoán
đi vào hoạt động với đầy đủ các hoạt động nghiệp vụ trên thị trường chứng
khoán, và trong đó phải kể đến nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư chứng
khoán.
Nghiệp quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là một trong những
nghiệp vụ quan trọng của thị trường chứng khoán. Nghiệp vụ này không chỉ
được áp dụng ở những tổ chức kinh doanh chứng khoán như công ty chứng
khoán, công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư mà còn là bộ phận không thể thiếu
trong hoạt động đầu tư tại các tổ chức tài chính như công ty bảo hiểm, quỹ
hưu trí, quỹ bảo hiểm xã hội. Để phát triển thị trường chứng khoán ổn định,
hiệu quả và thanh khoản cao, hoạt động quản lý danh mục đầu tư chứng
khoán chuyên nghiệp của các tổ chức đầu tư tài chính trên là rất cần thiết.
Kinh nghiệm thế giới và kinh nghiệm thị trường chứng khoán Việt Nam
trong thời vừa gian qua đã cho thấy sự thiếu vắng của các tổ chức đầu tư
chuyên nghiệp sẽ tạo ra một thị trường hỗn loạn, thanh khoản thấp, biến
động đồng chiều và giá cả không phản ảnh giá trị. Nghiệp vụ quản lý danh
mục đầu tư chứng khoán là cốt lõi của hoạt động đầu tư chuyên nghiệp.
Về bản chất, nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là việc
áp dụng những chiến lược đầu tư hiện đại, kiến thức, công cụ phân tích
chuyên nghiệp vào việc lựa chọn danh mục đầu tư chứng khoán nhằm tạo ra
2
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
lợi tức tối đa với mức rủi ro được giảm thiểu nhờ đa dạng hoá đầu tư. Do
những đòi hỏi cao về trình độ và quy mô lớn về vốn, nghiệp vụ này rất thích
hợp với các tổ chức đầu tư tài chính. Những nhà đầu tư nhỏ lẻ, vốn ít và
kinh nghiệm hạn chế, nếu muốn tận dụng hiệu quả của nghiệp vụ quản lý
danh mục đầu tư nên đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư trung gian như
quỹ đầu tư chứng khoán, danh mục đầu tư do công ty chứng khoán cung cấp
để tạo được lợi thế quy mô vốn.
Lý thuyết và thực tiễn của nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư đã
được đúc kết qua nhiều năm phát triển của thị trường chứng khoán tại nhiều
nước. Việc nghiên cứu khai thác những kiến thức này nhằm áp dụng có
chọn lọc vào thị trường chứng khoán non trẻ của Việt Nam sẽ bước đầu giúp
ích cho việc đẩy mạnh phát triển loại nghiệp vụ này, góp phần vào sự phát
triển một thị trường chứng khoán Việt Nam ổn định và hiệu quả. Đó chính
là lý do để chúng tôi lựa chọn đề tài “Áp dụng các công cụ toán tài chính
vào việc quản lý danh mục đầu tư và ứng dụng trong thị trường chứng
khoán Việt Nam”.
Trong quá trình học tập tại trường kết hợp với thời gian thực tập tại
Công ty Cổ phần Chứng Khoán Bảo Việt, được sự giúp đỡ hết sức tận tình
của các thầy cô và của công ty nói chung, Phòng Nghiệp vụ 2 nói riêng, em
đã hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc công ty cùng tập thể cán
bộ, nhân viên toàn công ty và đặc biệt cảm ơn các cán bộ, chuyên viên
Phòng Nghiệp vụ 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực
tập, để em có thể tìm hiểu về các nghiệp vụ của công ty, được tiếp cận với
thực tế của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Em cũng xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Nguyễn Quang Dong -
Khoa Toán Kinh Tế đã hướng dẫn nhiệt tình để giúp em hoàn thành chuyên
đề này!
3
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ
I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ NGHIỆP VỤ
QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ
1.Về thị trường chứng khoán
Nhu cầu về vốn để tiến hành đầu tư và các nguồn tiết kiệm có thể phát
sinh từ các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Trong đó, thường xảy ra
tình huống: những người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại
những người có vốn nhàn rỗi lại không có cơ hội đầu tư hoặc không biết đầu
tư vào đâu. Từ đó hình thành nên một cơ chế chuyển đổi từ tiết kiệm sang
đầu tư. Cơ chế đó được thực hiện và điều chỉnh trong khuôn khổ một thị
trường đó là thị trường tài chính. Trên thị trường tài chính, những người
thiếu vốn huy động vốn bằng cách phát hành ra các công cụ tài chính như
cổ phiếu, trái phiếu.... Những người có vốn dư thừa, thay vì trực tiếp đầu tư
vào máy móc thiết bị, nhà xưởng để sản xuất hàng hóa hay cung cấp dịch
vụ, sẽ đầu tư (mua) các công cụ tài chính được phát hành bởi những người
cần huy động vốn.
Vậy, thị trường tài chính là nơi diễn ra sự chuyển vốn từ những người
dư thừa vốn tới những người thiếu vốn. Thị trường tài chính cũng có thể
được định nghĩa là nơi phát hành, mua bán, trao đổi và chuyển nhượng các
công cụ tài chính theo các quy tắc, luật lệ đã được ấn định.
Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của thị trường tài
chính là tất yếu khách quan. Hoạt động trên thị trường tài chính có những
tác động, hiệu ứng trực tiếp tới hiệu quả đầu tư của các cá nhân của các
doanh nghiệp và hành vi của người tiêu dùng, và tới động thái chung của
toàn bộ nền kinh tế.
Là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, thị trường chứng
khoán (TTCK) được hiểu một cách chung nhất, là nơi diễn ra các giao dịch
4
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
mua bán, trao đổi các chứng khoán - các hàng hoá và dịch vụ tài chính giữa
các chủ thể tham gia. Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những
quy tắc ấn định trước.
Hiện nay tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng
khoán, tuy nhiên quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển
chung của TTCK hiện nay, đó là:
“Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao
đổi các loại chứng khoán”.
Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ,
nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức
phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa
các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Các giao dịch
mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp (Primary
Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại Sở giao dịch (Stock
Exchange) hay thị trường chứng khoán phi tập trung (Over - The Counter
Market), ở thị trường giao ngay (Spot Market) hay thị trường có kỳ hạn
(Future Market). Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu
của chứng khoán, và như vậy, thực chất đây chính là quá trình vận động của
tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hoá
thông thường khác vì hàng hoá của thị trường chứng khoán là một loại hàng
hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và
giá trị sử dụng. Như vậy, có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là
thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó,
giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của
vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền
sản xuất và lưu thông hàng hoá.
5
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
Các loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán cũng rất đa dạng: cổ
phiếu, trái phiếu (trái phiếu công ty và trái phiếu Chính Phủ), các loại chứng
khoán phái sinh.
- Cổ phiếu
Cổ phiếu là giấy chứng nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối
với thu nhập ròng và tài sản của công ty cổ phần.
Cổ phiếu có thể được chia làm hai loại:
Cổ phiếu thông thường (cổ phiếu phổ thông): là loại cổ phiếu
có thu nhập không cố định, cổ tức biến động tuỳ theo sự biến động lợi nhuận
của công ty. Tuy nhiên, thị giá cổ phiếu lại rất nhạy cảm trên thị trường,
không chỉ phụ thuộc vào lợi nhuận công ty mà còn rất nhiều nhân tố khác
như: môi trường kinh tế, thay đổi lãi suất, hay nói cách khác tuân theo quy
luật cung cầu. Cụ thể hơn nữa, thị giá cổ phiếu thông thường phụ thuộc vào
tăng trưởng kinh tế nói chung và biến động theo chiều ngược lại với biến
động lãi suất trái phiếu chính phủ, các công cụ vay nợ dài hạn lãi suất cố
định và lãi suất huy động tiền gửi của ngân hàng.
Cổ phiếu ưu đãi: là loại cổ phiếu có quyền nhận được thu nhập
cố định theo một tỷ lệ lãi suất nhất định, không phụ thuộc vào lợi nhuận của
công ty. Tuy nhiên, thị giá của cổ phiếu này phụ thuộc vào sự thay đổi lãi
suất trái phiếu kho bạc và tình hình tài chính của công ty.
Như vậy, việc đầu tư vào cổ phiếu không chỉ đơn giản là nhận được
cổ tức, mà quan trọng hơn chính là chênh lệch giá cổ phiếu trên thị trường
(lãi vốn). Khi cổ phiếu của công ty được nhiều người mua, chứng tỏ thị
trường tin tưởng vào hiện tại và khả năng phát triển của công ty trong tương
lai và ngược lại.
- Trái phiếu công ty
Trái phiếu là giấy chứng nhận việc vay vốn của một chủ thể (người
phát hành) đối với một chủ thể khác (người cho vay - người sở hữu trái
6
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
phiếu). Trái phiếu quy định trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi của tổ chức phát
hành cho người sở hữu trái phiếu khi đến thời điểm đáo hạn.
Trái phiếu công ty là loại trái khoán dài hạn, do các công ty phát hành
với lãi suất khá cao, giúp công ty huy động khối lượng vốn lớn trong một
thời gian ngắn. Ngoài ra, trái phiếu công ty còn có khả năng chuyển đổi và
một số loại có thể chuyển thành cổ phiếu. Do vậy, trái phiếu công ty là một
công cụ được lưu hành rộng rãi trên thị trường vốn.
- Các loại chứng khoán chính phủ: Là các công cụ vay nợ do Chính
phủ phát hành như: Trái phiếu Chính phủ; Tín phiếu kho bạc; Công trái
quốc gia... Đặc điểm chung là rủi ro phá sản của các loại trái khoán này là
rất nhỏ, coi như là không có rủi ro.
- Các loại chứng khoán phái sinh (derivatives): quyền chọn mua và
quyền chọn bán (call – put option), hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai,…
Trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, phù hợp với các điều
kiện kinh tế - chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc
tế, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình TTCK trên
thế giới, Việt Nam đã quyết định thành lập thị trường chứng khoán với
những đặc thù riêng biệt. Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu
bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK)
tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000, và thực hiện phiên giao dịch
đầu tiên vào ngày 28/07/2000 (tên viết tắt của TTGDCK TpHCM là
HoSTC). Năm năm sau đó, thị trường giao dịch Bảng II – Sàn giao dịch
chứng khoán (SGDCK) Hà Nội (HaSTC) ra đời, đánh dấu bước ngoặt cho
sự phát triển vượt bậc của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đang trong giai đoạn đầu
phát triển, quy mô và chất lượng vẫn còn nhiều hạn chế và cũng do các đặc
thù riêng nên sự can thiệp của Chính Phủ vào thị trường còn lớn. Quy mô thị
trường nhỏ thể hiện ở số lượng hàng hóa niêm yết còn ít, cụ thể, tính đến hết
tháng 4 năm 2006 mới có 36 cổ phiếu niêm yết trên HoSTC và 10 cổ phiếu
7
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
niêm yết trên HaSTC. Giao dịch khớp lệnh là khớp lệnh định kỳ, 2
phiên/ngày, 5 ngày/tuần (từ thứ 2 - thứ6) trên sàn giao dịch TpHCM và 3
ngày/tuần (thứ 2,4,6) trên HaSTC. Sự biến động của cổ phiếu chịu sự quản
lý của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (biên độ dao động giá chứng khoán
là 5% ở HoSTC; 10% ở HaSTC).
2. Về nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán
2.1. Khái niệm về nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán
2.1.1. Tài sản đầu tư
Bất kỳ những gì có giá trị trong giao dịch mà người ta sở hữu đều là
tài sản. Trong nền kinh tế thị trường, tài sản được phân ra thành hai loại tài
sản chủ yếu là tài sản hữu hình và tài sản tài chính. Tài sản hữu hình là
những tài sản có giá trị phụ thuộc vào tính chất riêng có của nó như nhà cửa
đất đai, máy móc, trang thiết bị.
Tài sản tài chính hay còn gọi là công cụ tài chính hay chứng khoán là
những tài sản thể hiện những đòi hỏi hợp pháp nào đó về lợi ích trong tương
lai. Theo Markowitz: Tài sản tài chính là chứng từ thể hiện quyền của người
sở hữu các tài sản đó đối với các nguồn thu nhập tương lai của chủ thể phát
hành. Tài sản chính bao gồm tiền và chứng khoán. Chứng khoán lại được
chia thành 2 nhóm chính là trái phiếu và cổ phiếu.
Các loại tài sản chủ yếu, phổ biến được xem là các tài sản có thể đầu
tư trong các tổ chức cũng như cá nhân đầu tư chuyên nghiệp bao gồm:
Cổ phiếu
Vốn của công ty có thể chia thành nhiều phần bằng nhau được gọi là
cổ phần. Người nắm giữ cổ phần hay sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông.
Giấy chứng nhận về việc sở hữu cổ phần đó, được cấp cho cổ đông và được
gọi là cổ phiếu.
- Cổ phiếu là loại tài sản có tác dụng giảm biến động lợi tức của danh
mục cao nhất bởi độ biến động của tài sản này không trùng khớp về chu kỳ
hay thời gian với các loại tài sản khác.
8
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
- Cổ phiếu là loại tài sản được đầu tư phổ biến nhất cho các nhà đầu
tư tổ chức trên thế giới. Tuy nhiên do biến động cao về thu nhập và giá, nên
rủi ro của đầu tư cổ phiếu cũng cao.
- Lợi ích của đầu tư cổ phiếu thông thường bao gồm: thanh khoản
cao, tăng trưởng dài hạn, lợi ích về thuế. Rủi ro bao gồm: biến động giá,
không ổn định về thu nhập cổ tức, rủi ro phá sản, và rủi ro kinh tế khác, các
rủi ro ngoại hối và thanh toán khác nếu cổ phiếu là bằng ngoại tệ và nước
ngoài.
Trái phiếu
Trái phiếu là chứng khoán nợ, là chứng từ ghi nhận người nắm giữ có
được quyền đòi quyền lợi của chủ nợ khi đến hạn.
- Trái phiếu là loại tài sản quan trọng thứ 2 sau cổ phiếu đối với
nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư, bao gồm trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu công trình, trái phiếu công ty, trái phiếu bảo đảm và không bảo đảm,
các trái phiếu cơ cấu, trái phiếu bất động sản v.v...
- Đầu tư trái phiếu trong danh mục đầu tư chủ yếu là rủi ro thấp,
người đầu tư nâng cao tính đa dạng tài sản để giảm rủi ro, lợi tức cao hơn là
các đầu tư tiền tệ ngắn hạn. Rủi ro gắn liền với các chứng khoán nợ này là
rủi ro lãi suất, kỳ hạn và độ cong (convexity), rủi ro ngoại hối, rủi ro tín
dụng/phá sản.
Các loại chứng khoán khác
- Trái phiếu chuyển đổi là một loại chứng khoán nợ có đặc tính cổ
phần, do đó là một tài sản hấp dẫn về tính linh hoạt trong đầu tư, có rủi ro
phức tạp và cơ hội kiếm lời cũng cao, phù hợp với những nhà đầu tư chuyên
nghiệp, hiểu rõ về bản chất của loại chứng khoán này.
- Các chứng khoán phái sinh khác như quyền chọn, quyền mua, hợp
đồng tương lai, hợp đồng trao đổi chứng khoán. Đây là những chứng khoán
hình thành từ những loại chứng khoán cơ bản trên, nhưng có tính phức tạp
hơn do các đặc thù về thời gian tương giao chứng khoán tương lai, giá
9