Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Yếu tố lãng mạn trong tiểu thuyết nhà thờ đức bà pari của vích-to huy- gô.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------
NGUYỄN THỊ NHÀN
Yếu tố lãng mạn trong tiểu thuyết Nhà thờ
Đức bà Pari của Vích-to Huy- gô
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Khi mà cả xã hội Pháp đang chạy theo những thắng lợi của chủ nghĩa
tư bản thì vẫn có một con người luôn sống trong “sự im lặng” để ươm lên
những hạt mầm khát vọng trong tâm hồn nhân loại. Con người ấy luôn đấu
tranh không biết mệt mỏi cho nền tự do dân chủ của loài người tiến bộ. Và
con người đó chính là Vích-to Huy-gô- một cây đại thụ văn học thế kỷ XIX
của Pháp nói riêng và thế giới nói chung.
Trong dòng chảy của nền văn học thế giới, nếu như Bandăc được đánh
giá là “một bậc thầy của nghĩa hiện thực”, một nhà “kiến trúc sư” tài ba đã
xây dựng nên một công trình thế kỷ “Tấn trò đời” thì Vích-to Huy-gô là “hiện
thân của chủ nghĩa lãng mạn” là “tiếng vọng âm vang của thời đại”. Bằng tài
năng và tâm huyết của mình, Vích-to Huy-gô đã mang đến cho đời những tác
phẩm có giá trị. Sự đắng cay chua chát của hiện thực quyện hòa cùng cái thi
vị ngọt ngào bay bỗng của lãng mạn là cảm giác đã thấm vào trái tim người
đọc mỗi khi bước vào thế giới nghệ thuật của ông. Và chính cái lãng mạn ấy
đã đưa Vích-to Huy-gô trở thành một nhà văn lãng mạn tiến bộ, ưu tú của
nước Pháp. Và cũng chính ông là người đã luôn sát cánh bên những con
người cùng khổ nhất của xã hội để lên tiếng nói đòi công lý. Và sâu xa hơn,
ông còn thể hiện được những khát vọng bình dị và những ước muốn sâu xa
nhất của con người trong cuộc sống.
Tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari là một trong những đỉnh cao của chủ
nghĩa lãng mạn mà tác giả đã xây dựng. Dường như, ông đã “thổi tinh anh
cho các ảo ảnh vĩ đại trong tâm linh, trí tuệ ông, biến các biểu hiện tượng
trưng khô cứng thành nhân vật và tình tiết sinh động, đem quan điểm hết sức
riêng tư và đôi khi rất cần xem xét lại, để nhận định đánh giá và miêu tả các
thực tế lịch sử” [3; 11]. Bởi thế, mỗi khi đọc tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari
người đọc như được tắm mình trong lịch sử Pháp thế kỷ XV, được viếng thăm
một thành phố cổ nằm giữa lòng thành phố đô hội và được lắng nghe những
phong tục văn hóa cổ xưa với hàng loạt những lễ hội đình đám. Và đặc biệt,
người đọc còn được lắng mình lại trong những “giai điệu” tình yêu bằng một
thứ ngôn ngữ uyên bác mang màu sắc huyền thoại tuyệt đẹp.
Ở trong tác phẩm còn là sự xuất hiện của những tình tiết ly kỳ, hấp dẫn
cùng những chi tiết không kém phần rùng rợn, sự đan xen của nhiều hình ảnh
hư ảo đã như đưa người đọc trở về với những đêm trường Trung cổ đầy man
rợ. Nhưng ở trong đó vẫn hiện lên hình ảnh của những con người cao cả,
trong sáng. Họ yêu nhau, họ ước ao, họ khát khao về một cuộc sống công
bằng, một cuộc sống tự do, một cuộc sống chỉ có tình thương yêu tha thiết.
Mặc dù, những con người đó phải sống một cuộc sống khổ đau nhưng chính
tác giả luôn muốn mang đến cho cuộc đời của họ những gì tươi sáng nhất. Đó
có thể là tình yêu, có thể là sự sẻ chia,… để như cứu lấy linh hồn của con
người khi tất cả đã bỏ quên họ giữa cõi đời.
Nhà thờ Đức bà Pari chính là sản phẩm của trí tưởng tượng, thành quả
của tài năng, kết quả của xã hội được tác giả xây dựng sinh động trong tác
phẩm. Với mong muốn tìm hiểu sâu sắc hơn về giá trị của tác phẩm và tiếng
lòng của tác giả, chúng tôi đi vào tìm hiểu đề tài “Yếu tố lãng mạn trong tiểu
thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Vích-to Huy- gô”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari (1482) của
Vích-to Huy-gô (Nhị Ca (dịch) năm 2010), Nxb Văn học.
- Phạm vi nghiên cứu: Ở đề tài này chúng tôi đi vào tìm hiểu “Yếu tố
lãng mạn trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari của Vích-to Huy-gô.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhà thờ Đức bà Pari- tòa nhà thờ vĩ đại bằng thơ ca, đã vang lên như
một hồi chuông cảnh tỉnh thấu tận vào những ngõ ngách của lòng người.
Chính bằng những nét đặc sắc của ngòi bút lãng mạn, Vích-to Huy-gô trong
tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari đã khẳng định những thành công độc đáo của
mình trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Ngay từ khi ra đời cho đến nay, tiểu
thuyết Nhà thờ Đức bà Pari được đông đảo các nhà nghiên cứu trên thế giới
quan tâm và đánh giá cao.
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đón nhận tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà
Pari một cách nồng nhiệt với những trang phê bình đầy ý nghĩa. Có thể nói:
“Với Nhà thờ Đức bà Pari (1931), Huygo đã chuyển tấn bi kịch về những con
người bị gạt ra ngoài lề xã hội- từng xuất hiện hai năm trước đó ở “Ngày cuối
cùng của một kẻ bị kết án” (1929)- vào khung lịch sử của huyền thoại” [15;
399]. Đó là những gì mà Huy-gô muốn gửi gắn đến bạn đọc. Với ông, tình
yêu thương là sự che chở lớn lao nhất cho những con người dưới tận cùng của
xã hội. Đến với những tác phẩm của ông, đặc biệt là tiểu thuyết Nhà thờ Đức
bà Pari người đọc thấy được cuộc sống của những con người nghèo khổ
nhưng hình ảnh của họ luôn mang tầm vóc vĩ đại.
Khi nhìn nhận lại những giá trị cao cả của chủ nghĩa lãng mạn được gửi
gắm trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari, Đặng Anh Đào đã từng viết:
“Nhà thờ Đức Bà Pari hướng về đề tài Trung cổ nhưng không phải với những
cảnh hoang tàn, những lâu đài phong kiến và tầng lớp kỵ sĩ mà là hướng về
nền Trung cổ của nhân dân với mọi sắc thái phong tục, tập quán, tín ngưỡng,
kiến trúc... và làm toát lên sức mạnh vô tận của quần chúng” [16; 173]. Bởi,
chính tác giả đang ý thức được rằng: mình đang sống trong một khúc gãy của
tiến trình nhân loại và khát khao tìm về cái cũ, tìm về với nhân dân như một
nguồn nước vô tận vỗ về cho tâm hồn đang cằn khô trước thực tại xã hội.
Đặng Anh Đào (2003), trong cuốn Victo Huygô cuộc đời và tác phẩm
đã biên soạn những bài phê bình, nghiên cứu có giá trị về tác giả Vích-to
Huy-gô, trong đó có công trình nghiên cứu của Đặng Thị Hạnh với “Bút pháp
miêu tả của Huygô trong Nhà thờ Đức bà Pari đã nói rằng: “Bút pháp miêu tả
trong tiểu thuyết của Huygô đã tách ra khỏi bút pháp miêu tả của hai nhà tiên
tri lãng mạn Ruxô và Becnađanh đơ Xanh Pie… Thiên nhiên và cảnh trí trong
tiểu thuyết Huygô không còn thuộc về thế giới nội tâm nhỏ bé của một nhân
vật và không còn được nhìn bằng đôi mắt lồng qua cảm xúc của nhân vật…
bằng từ tượng hình “trí tưởng tượng bằng mắt” vốn được coi là năng khiếu
chủ đạo của Huygô” [7; 155]. Đó chính là nét bút diệu kỳ của Huy-gô trong
việc tạo nên những khoảnh khắc thiên nhiên đa chiều thể hiện cho bức tranh
muôn màu của cuộc sống.
Cũng đánh giá về giá trị của Nhà thờ Đức bà Pari, Đặng Anh Đào
trong cuốn Văn học phương Tây đã khẳng định: “Nhà thờ Đức Bà Pari vẫn là
một cuốn truyện được dịch và đọc nhiều trên thế giới với tất cả vẻ ngây thơ,
tươi mát và tình yêu con người tràn ngập trong đó” [6; 497]. Bởi, với Huy-gô
tình yêu con người là một mãnh lực giúp ông vượt qua mọi khó khăn gian khổ
và tìm về với những gì xã hội đã đánh mất.
Trong Lời giới thiệu về cuốn tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari có rất
nhiều tác giả đã đánh giá rất cao về giá trị của tác phẩm. Với Ơgien Xuy, ông
cho rằng: “Ngoài chất thơ cùng tất cả sự phong phú của tư tưởng và tính
kịch... cuốn truyện của ông còn gì đó làm tôi xúc động”. Còn Têôphin Gôchiê
đã đánh về về cuốn tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari: “là một thiên anh hùng
ca Iliat thực sự, ngay từ bây giờ nó đã trở thành một tác phẩm kinh điển” [3;
6]. Chính tác phẩm là một kiệt tác của tiểu thuyết lịch sử thời kỳ lãng mạn
chủ nghĩa. Với Huy-gô lịch sử là một cuốn sổ tay chân thực về cuộc sống để
ông gửi gắm những tình cảm của mình. Chính “bằng nhiệt tình nhà thơ,
nghiêm túc nhà tri thức, lòng yêu mến nồng nàn mọi của cải vật chất và tinh
thần của đất nước, tác giả Nhà thờ Đức bà Paris lần nữa khẳng định tinh thần
dân tộc và dân chủ trong sự nghiệp nghệ thuật của ông” [3; 11]. Để từ đó
Huy-gô thể hiện được những khát vọng của mình về một xã hội tốt đẹp hơn.
Đó chính là thành quả của sự chân thành và tình thương yêu mà tác giả cuốn
tiểu thuyết muốn gửi gắm đến những thế hệ mai sau.
Và chính Nhà thờ Đức bà Pari là một sự sáng tạo nghệ thuật diệu kỳ
mà Huy-gô muốn mang đến cho nhân loại. Đến với tác phẩm người đọc
không những được chứng kiến những cung bậc tình yêu mà còn thể hiện một
khát vọng sống trong xã hội đầy tình yêu và hạnh phúc. Một xã hội mà “người
với người sống để yêu nhau”.
Không những đánh giá về giá trị của tác phẩm, các nhà nghiên cứu còn
giành cho Vích-to Huy-gô những lời đánh giá chân thành, khẳng định vị thế
của ông trên văn đàn thế giới.
Lê Huy Bắc đã từng có những nhận xét rất xác đáng về Vích-to Huy-gô
và những vị trí của ông trong giới văn học thế giới: “Thế kỷ XIX ở nước Pháp
và cả thế giới không ai có được vinh dự lớn hơn Huy-gô được coi là “đứa con
thiên tài của thời đại”. Sinh ra khi “thế kỷ đã lên hai”, bước vào văn đàn năm
17 tuổi và với cuộc đời kéo dài hơn 80 năm đầy những biến cố của nước
Pháp, con người ấy thực sự là một huyền thoại lôi cuốn độc giả nhiều thế hệ
trên nhiều mãnh đất khác nhau trong địa hạt văn chương” [2; 109]. Công trình
nghiên cứu đã đánh giá rất cao tầm quan trọng của Vích-to Huy-gô đối với
nền văn học và những ảnh hưởng của ông đối với những thế hệ tiếp nhận văn
học trên thế giới.
Còn Đặng Anh Đào nhận xét: “Huygo xuất hiện như một ngôi sao mọc
sớm và lặn muộn nhất ở chân trời của thế kỷ. Mãnh liệt và cường tráng, thiên
tài ấy ngay từ đầu đã tự khẳng định mình như chủ soái của trường phái lãng
mạn. Cho tới nửa sau của thế kỷ, dù trào lưu lãng mạn đã qua thời vàng son
của nó, thì bản thân Huygô vẫn làm mờ nhạt tài năng của nhiều nhà “chủ
nghĩa đang nở ra và tàn đi rất mau chóng ở cuối thế kỷ, đến nỗi họ phải than
rằng “cây sồi già xanh ngắt cho đến lúc chết” ấy đã làm cớm cả một vùng bao
quanh” [6; 475]. Lời nhận xét đã làm nổi bật được vị thế và sức ảnh hưởng