Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Vấn đề con người trong tác phẩm buồn nôn của jean-paul sartre
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
------------------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài
VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TÁC PHẨM “BUỒN
NÔN” CỦA JEAN-PAUL SARTRE
Sinh viên thực hiện: Bùi Trần Huyền Trâm
Lớp :15SGC
Giảng viên hướng dẫn: TS. Dương Đình Tùng
Đà Nẵng, tháng 01 năm 2019
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Trong mỗi giai đoạn lịch sử của triết học, con người luôn là
đối tượng được nghiên cứu đầy đủ và trên nhiều phương diện
nhất. Con người luôn gắn liền với thời đại, không có con người
trừu tượng, mà luôn tồn tại trong một xã hội nhất định, một giai
cấp, một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Trong sự tồn tại, với
những tác động mang tính xã hội – lịch sử, đặc biệt từ vấn đề
giai cấp và vấn đề kinh tế, đã làm cho bản chất con người ngày
càng bị tha hóa, và trong sứ mệnh của mình, triết học đi tì lại cái
bản nguyên của con người, cái con người trong tính toàn vẹn của
nó. Theo Husserl: “Hình thức tha hóa chiếm ưu thế trong xã hội
phương Tây chính là sự tha hóa về tinh thần”.
Xã hội càng giàu có về vật chất, con người càng bị cuốn vào
lối sống thực dụng, thì những giá trị tinh thần ngày bị xem nhẹ,
đặc biệt mặt trái của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã
làm cho tư duy con người ngày càng khô cứng hơn, sự riêng biệt,
tính cá nhân ngày càng bị lãng quên. Triết học hiện sinh ra đời
với mục đích đi tìm sự hiện tồn của con người, tìm lại những giá
trị nhân bản mà thời đại công nghiệp con người đã bỏ qua. Triết
học hiện sinh tìm về đời sống nội tâm, ý thức tự quy và cách thức
phản ứng của con người không phải theo bản năng hay theo một
cách thức nhất định mà phản ứng một cách tự do. Người có tự
do hiện sinh là người hành động vì cảm thấy phải hành động,
hành động để thể hiện sự hiện sinh của chính mình, hành động
để làm sự hiện sinh của mình thêm phong phú và sâu sắc chứ
không phải hành động vì chiều theo số động hay vì truyền thống
hay vì cưỡng ép hay vì một bất kỳ một lý do nào khác mà không
vì sự hiện sinh của chính mình.
2
Jean-Paul Sartre là nhà triết học người Pháp, là một trong
những đại diện hàng đầu của triết học hiên sinh. Ông được biết
đến với nhiều tác phẩm nổi tiếng như Buồn nôn (1938), Bức
tường (1938), Tồn tại và hư vô (1943), Những con đường của tự
do (1945-1949), Những người bị cầm tù ở Altona (1960),…
Trong số các tác phẩm để lại tên tuổi của ông với hậu thế chúng
ta phải bàn đến cuốn tiểu thuyết “Buồn Nôn”. Bởi lẽ tác phẩm
đã làm nổi bật được cảm xúc nội tâm của con người, đồng thời
cho chúng ta thấy cảm xúc con người được lột tả thông qua nhân
vật Roquentin. Ông đã mổ xẻ đến kiệt cùng sự nhận thức của
Roquentin về chính mình, về từng động tác, từng cảm giác, từng
tri giác của chính mình để dẫn dắt chúng ta đi đến nhận thức sâu
sắc hơn về con người hiện sinh. Để làm rõ được con người hiện
sinh trong tác phẩm này tôi quyết định chọn đề tài: “Vấn đề con
người trong tác phẩm Buồn Nôn của Jean-Paul Sartre”góp phần
nghiên cứu giúp chúng ta nhận thức đúng về con người dưới góc
nhìn hiện sinh.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Từ việc phân tích vấn đề con người trong tác phẩm, đề tài
chỉ ra những giá trị những vấn đề về con người đối với tính lịch
sử và xã hội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái quát về Jean-Paul Sartre, triết học của ông và tác phẩm
“Buồn Nôn”.
- Phân tích vấn đề con người trong tác phẩm “Buồn Nôn”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Vấn đề con người trong tác phẩm “Buồn Nôn” của Jean-Paul
Sartre.
3
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Tác phẩm “Buồn Nôn” của Jean-Paul Sartre.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử là cơ sở nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng những phương pháp
nghiên cứu chủ đạo sau: phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử,
đối chiếu, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa.
5. Bố cục của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo bố cục đề
tài gồm 2 chương
- Chương I: Khái lược về Triết học của Jean Paul Sartre và tác
phẩm “Buồn Nôn”.
- Chương II: Vấn đề con người trong tác phẩm “Buồn Nôn” của
Jean Paul Sartre.
6. Tổng quan tài liệu:
Buồn Nôn của Jean-Paul Sartre là một tác phẩm mang lại giá
trị tinh thần rất lớn cho nhân loại. Chính vì thế, nó luôn được
quan tâm và được nhiều học giả đi sâu vào nghiên cứu trên nhiều
khía cạnh, đặc biệt là về góc độ con người, chủ nghĩa hiện
sinh,… Bởi Buồn Nôn chính là một làn sóng của chủ nghĩa hiện
sinh nên nó đã khơi lên rất nhiều dư luận trái chiều đối với các
học giả. Họ quyết tâm đi nghiên cứu tác phẩm để có thể hiểu rõ
hơn về nội dung của nó, đồng thời họ cũng dành nhiều thời gian
đi nghiên cứu về tác giả Jean Paul Sartre. Trên thế giới cũng như
ở Việt Nam cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm
Buồn Nôn và tác giả Jean-Paul Sartre, bên cạnh đó, có một số
công trình được viết thành sách.
Trong thời kì kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam Việt Nam,
có nhiều tác giả viết về chủ nghĩa hiện sinh như: “Chủ nghĩa hiện
4
sinh và thuyết cấu trúc” của Trần Thiện Đạo; “Triết học hiện
sinh” của Trần Thái Đỉnh; “Chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam
Việt Nam 1954-1975” (trên bình diện lí thuyết) của Huỳnh Như
Phương… Các tác giả này đã viết nhiều về Sartre nhưng tiểu
thuyết Buồn Nôn chỉ được trình bày một cách ngắn gọn, chưa
tác giả nào dành hẳn một mục nói về tác phẩm quan trọng này.
Mới đây, ở những trang tạp chí văn học, báo,… nhiều bài
viết nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh, bài viết về Jean-Paul
Sartre với Buồn Nôn được nghiên cứu và bàn luận sôi nổi. Các
công trình này đã trình bày một cách khái quát và có hệ thống
quan niệm của chủ nghĩa hiện sinh cũng như tư tưởng của Sartre.
Đó là những tri thức gợi mở cho những người nghiên cứu chủ
nghĩa hiện sinh.
Francis Jeanson viết cuốn “Sartre” vào năm 1947, do chính
Sartre tái bản dưới tựa “Vấn đề luân lí và tư tưởng của Sartre”,
cuốn sách đi giới thiệu, trình bày lại chính xác, mạch lạc, dễ hiểu
triết lí của Sartre và những vấn đề luân lí nó đặt ra. J.P. Sartre
đặc biệt nhấn mạnh yếu tố xã hội trong khi nghiên cứu một nhà
văn. Điều đó thể hiện trước hết qua sự nghiệp sáng tác của chính
bản thân ông: “Tôi nghĩ rằng trong tôi đã có sự phát triển liên
tục từ tác phẩm Buồn Nôn đến Phê bình lí trí biện chứng. Sự
phát hiện lớn của tôi, đó là các vấn đề xã hội, trong chiến tranh,
tôi đã là người lính trên chiến trận, đó thực sự là nạn nhân của
một xã hội mà anh thuộc về nó, nơi ấy anh không muốn có mặt
và là xã hội đem lại cho anh những luật lệ mà anh không muốn.
Các vấn đề xã hội không có trong tác phẩm Buồn Nôn, nhưng
người ta có thể thấy thoáng qua”. Sartre quan tâm đến việc hòa
nhập con người và thời đại, thống nhất một cách hữu cơ việc
nghiên cứu lịch sử và phân tích tác phẩm của nhà văn.
5
Bài viết “Jean-Paul Sartre - Nỗi đam mê làm người trong thế
kỉ XX” của tác giả Phan Huy Đường. Nó đi vào nghiên cứu về
hiện sinh của Jean-Paul Sartre cùng những tác phẩm của ông.
Với những nội dung như: Một con người quái đản; Một kiếp
sống, tư duy, hành động và sáng tác nghệ thuật phi thường. Cùng
với đó là quan điểm của các nhà hiện sinh lớn như Descartes,
Kant, Hegel khi trả lời 3 câu hỏi: Thực-thể có thực hay không có
thực. Nếu có, bản chất của nó là gì?, Tinh-thần có thực hay
không có thực. Nếu có, bản chất của nó là gì?, Tinh-thần có thể
hiểu thực-thể hay không? Vì sao? để từ đó tác giả có thể đi sâu
nghiên cứu vào tư tưởng và hành động của Sartre.
Các nhà nghiên cứu dành nhiều đánh giá cho chủ nghĩa hiện
sinh của Jean-Paul Sartre như: “Từ hiện tượng học đến triết học
hiện sinh là con đường tất yếu của tư tưởng thế kỉ 20, mà lịch sử
đã chọn Jean-Paul Sartre là người phát ngôn của thời đại”. Tất
cả những vấn đề Sartre đặt ra để làm sáng tỏ thân phận làm
người, cụ thể là: “Hữu thể là một thảm kịch, là phi lí, là hư vô;
con người luôn cô đơn và cái chết luôn hiện diện. Nhưng con
người biết bất chấp cái chết để nhập cuộc tự do làm nên lịch sử
của mình bằng những dự phóng”. Những tác phẩm văn học của
Sartre đều bộc lộ tư tưởng triết học của Sartre trong Tồn tại và
Hư vô, đó là: Hiện sinh từ thân phận và hoàn cảnh con người
trong thế giới, một thế giới mà trong đó ta bị đẩy vào và chờ đợi
ở ta một ý nghĩa.
Bên cạnh đó còn có một số công trình nghiên cứu như: JeanPaul Sartre là nhà văn dấn thân và nhập cuộc trong cuốn “Sứ
mệnh của tiểu thuyết trong thời đại chúng ta” của Svetlana viết
năm 2005; “Cửa sổ văn chương thế giới” (Ngô Tự Lập sưu tầm,
tuyển chọn) của Trần Thiện Đạo viết năm 2003; “Về tư tưởng
6
và văn học hiện đại phương Tây” của Phạm Văn Sĩ viết năm
1986.
CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC CỦA JEANPAUL SARTRE VÀ TÁC PHẨM “BUỒN NÔN”
1.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Jean-Paul Sartre
7
Jean-Paul Sartre là nhà triết học hiện sinh, nhà soạn kịch, nhà
biên kịch, tiểu thuyết gia và là nhà hoạt động chính trị người
Pháp. Tác phẩm của ông cũng đã ảnh hưởng đến xã hội học, lý
thuyết phê bình, lý thuyết hậu thuộc địa, phê bình văn học, và
vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng đến các ngành này.
Ông sinh ngày 21 tháng 05 năm 1905 tại Paris, trong một gia
đình gia giáo và giàu có. Ông là người con duy nhất của JeanBaptiste Sartre, một sĩ quan của Hải quân Pháp, và Anne-Marie
Schweitzer. Năm 1907, khi Satre mới có 2 tuổi thì cha của ông
mất vì bị sốt. Bà Anne và đã đưa ông về ở với ông bà ngoại ở
Meudon. Vào năm 1917, khi Sartre 12 tuổi bà Anne Marie tái
giá với ông Joseph Mancy, một kỹ sư và về sau được cử làm
giám đốc xưởng hải quân tại La Rochelle. Cậu Jean-Paul Sartre
đã lớn lên trong một khung cảnh tư sản thành thị, không hề cảm
thấy hạnh phúc khi theo học tại trường trung học La Rochelle và
luôn cảm thấy cô độc.
Vào những năm 1920, khi còn là một thiếu niên, Satre đã bị
triết học thu hút khi ông đọc bài khảo luận “Các dữ liệu trực cảm
của ý thức” của Henri Bergson. Năm 1924, ông đã theo học và
đạt được văn bằng triết học tại Trường Sư Phạm nổi tiếng ở Paris
(École normale supérieure), một trường alma mater của nhiều
nhà tư tưởng và trí thức nổi tiếng của Pháp. Trong thời gian này
Sartre đã gặp một cô bạn cùng lớp: Simone de Beauvoir – là
người phụ nữ đầu tiên đậu thạc sĩ ở Pháp.
Vào những năm đầu học tại École Normale, Sartre là một
trong những sinh viên quậy nhất trường. Năm 1927, ông cùng
Georges Canguilhem vẽ 1 bức biếm họa về chủ nghĩa chống
quân phiệt trên bản tin của trường, bức tranh này đặc biệt gây
khó chịu cho hiệu trưởng Gustave Lanson. Năm 1933-1934 J.P.
Sartre sang Đức dạy học, đồng thời chịu ảnh hưởng nhiều từ triết
8
học Đức, nhất là Hiện tượng học và những tư tưởng của
Heiddeger.
Cuối thập niên 1930 Sartre bắt đầu viết những tác phẩm lớn
của đời mình, trong đó có La Nausée (Buồn Nôn, 1938), Le Mur
(Bức Tường, 1938), là những cuốn sách tiêu biểu cho dòng văn
học phi lý. Năm 1945, sáng lập và chủ trương tạp chí Les Temp
Modernes (Thời mới). Sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, ông
thôi dạy học và chuyên tâm vào sáng tác văn học.
Năm 1964, ông lại càng nổi tiếng cùng với việc ông từ chối
giải Nobel văn học. Ông cho rằng giải Nobel không thật sự vô
tư và ông không muốn gắn tên tuổi mình với sự không vô tư ấy.
Vào năm 1970, J.P. Sartre đã bị nhà cầm quyền Pháp bắt giữ vì
bán trên đường phố một tài liệu Mao-ít bị cấm đoán, có tên là
“Lý Do của dân tộc” (La cause du people).. Tuy nhiên, vào đầu
thập niên 1960, cuộc cách mạng kinh tế và xã hội tại xứ Cuba đã
ám ảnh ông J.P. Sartre nhiều hơn.
Chủ nghĩa Hiện sinh của J.P. Sartre mang tính chất vô thần.
Từ việc xác nhận tính chất vô thần trong hệ thống tư tưởng của
mình, J.P. Sartre nhấn mạnh trách nhiệm của con người trong
cuộc đời. Trách nhiệm đó thể hiện ở sự tự lựa chọn của con người
trong từng tình huống cụ thể. Cũng từ đây xuất hiện những quan
niệm tích cực của J.P. Sartre liên quan đến vấn đề người viết.
J.P. Sartre cũng được biết đến nhiều với tư cách một nhà viết
kịch phi lí.
Ông đã để lại cho nhân loại nhiều tác phẩm như Đề cương lí
thuyết tình cảm (Esquisse d’une théorie des émotions, 1939),
khảo cứu [Outline of a theory of the emotions]; Cái tưởng tượng
(L’Imaginaire, 1940), nghiên cứu tâm lí [Psychology of
imagination]; Buồn nôn (La nausée, 1938), tiểu thuyết [Nausea];
Bức tường (Le mur, 1938), truyện [Intimacy]; Tồn tại và hư vô