Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ WIMAX TRONG TRIỂN KHAI DỊCH VỤ INTERNET PROTOCOL TELEVISION
PREMIUM
Số trang
187
Kích thước
4.5 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1067

ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ WIMAX TRONG TRIỂN KHAI DỊCH VỤ INTERNET PROTOCOL TELEVISION

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐỀ TÀI

ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ WIMAX

TRONG TRIỂN KHAI DỊCH VỤ

INTERNET PROTOCOL

TELEVISION

Chương 1: GIỚI THIỆU IPTV

I. Giới thiệu về IPTV

1. IPTV là gì?

IPTV là tên viết tắt của cụm từ Internet Protocol Television -truyền hình

qua giao thức Internet.

ITPV theo định nghĩa chính thức như sau: IPTV được định nghĩa là các dịch vụ

đa phương tiện như truyền hình ảnh, tiếng nói, văn bản, dữ liệu được phân phối

1

qua các mạng dựa trên IP mà được quản lý để cung cấp các cấp chất lượng dịch

vụ, bảo mật, tính tương tác, tính tin cậy theo yêu cầu.

Như vậy IPTV đóng vai trò phân phối các dữ liệu, kể cả hình ảnh, âm

thanh, văn bản qua mạng sử dụng giao thức Internet. Điều này nhấn mạnh vào

việc Internet không đóng vai trò chính trong việc truyền tải thông tin truyền hình

hay bất kì loại nội dung truyền hình nào khác. Thay vào đó, IPTV sử dụng IP là

cơ chế phân phối mà theo đó có thể sử dụng Internet, đại diện cho mạng công

cộng dựa trên IP, hay có thể sử dụng mạng riêng dựa trên IP.

Có thể thấy, IPTV là một dịch vụ số mà có khả năng cung cấp những tính

năng vượt trội hơn khả năng của bất kì cơ chế phân phối truyền hình nào khác.

Ví dụ, set – top box IPTV có thể thông qua phần mềm để cho phép xem đồng

thời 4 chương trình truyền hình trên màn hiển thị, hay có thể nhận tin nhắn sms,

e – mail…

2. Một số đặc tính của IPTV

♦ Hỗ trợ truyền hình tương tác

Khả năng hai chiều của hệ thống IPTV cho phép nhà cung cấp dịch vụ

phân phối toàn bộ các ứng dụng TV tương tác. Các loại hình dịch vụ được truyền

tải thông qua một dịch vụ IPTV có thể bao gồm truyền hình trực tiếp chuẩn,

truyền hình chất lượng HDTV, trò chơi tương tác va 2internet tốc độ cao.

♦ Sự dịch thời gian

IPTV kết hợp với một máy ghi video kĩ thuật số cho phép dịch thời gian

nội dung chương trình – một cơ chế cho việc ghi và lưu trữ nội dung IPTV để

xem sau.

♦ Cá nhân hóa

Một thệ thống IPTV đầu cuối hỗ trợ truyền thông tin hai chiều và cho

phép người dùng cuối cá nhân hóa những thói quen xem TV của họ bằng cách

cho phép họ quyết định những gì họ muốn xem và khi nào họ muốn xem

2

♦ Yêu cầu băng thông thấp

Thay vì phân phối trên mọi kênh để tới mọi người dùng, công nghệ IPTV

cho phép nhà cung cấp dịch vụ chỉ truyền trên một kênh mà người dùng yêu

cầu. Đặc điểm hấp dẫn này cho phép nhà điều hành mạng có thể tiết kiệm băng

thông của mạng.

♦ Có thể truy xuất qua nhiều thiết bị

Việc xem nội dung IPTV bây giờ không chỉ giới hạn ở việc sử dụng TV.

Người dùng có thể sử dụng máy PC hay thiết bị di động để truy xuất vào các

dịch vụ IPTV.

3. Sự khác biệt giữa IPTV và truyền hình Intrenet

Do đều được truyền trên mạng dựa trên giao thức IP, người ta đôi lúc hay

nhầm IPTV là truyền hình Internet. Tuy nhiên, 2 dịch vụ này có nhiều điểm

khác nhau:

Truyền hình Internet sử dụng mạng Internet công cộng để phân phát các

nội dung video tới người sử dụng cuối. IPTV sử dụng mạng riêng để truyền các

nội dung video đến khách hàng. Các mạng riêng này thường được tổ chức và

vận hành bởi nhà cung cấp dịch vụ IPTV.

♦ Về mặt địa lý

Các mạng do nhà cung cấp dịch vụ viễn thông sở hữu và điều khiển không

cho phép người sử dụng Internet truy cập. Các mạng này chỉ giới hạn trong các

khu vực địa lí cố định.Trong khi mạng Internet không có giới hạn về mặt địa lí,

người dùng Internet nào cũng có thể xem truyền hình Internet ở bất kì đâu trên

thế giới.

♦ Về quyền sở hữu hạ tầng mạng

3

Khi nội dung video được gửi qua mạng Internet công cộng, các gói sử

dụng giao thức Internet mạng nội dung video có thể bị trễ hoặc mất khi nó di

chuyển trong các mạng khác nhau tạo nên mạng Internet công cộng. Do đó, nhà

cung cấp các dịch vụ truyền hình ảnh qua mạng Internet không đảm bảo chất

lượng truyền hình như với truyền hình mặt đất, truyền hình cáp hay truyền hình

vệ tinh. Thực tế là các nội dung video truyền qua mạng Internet khi hiển thị trên

màn hình TV có thể bị giật và chất lượng hình ảnh thấp.

Trong khi, IPTV chỉ được phân phối qua một hạ tầng mạng của nhà cung

cấp dịch vụ. Do đó người vận hành mạng có thể điều chỉnh để cung cấp hình ảnh

với chất lượng cao.

♦ Về cơ chế truy cập

Một set-top box số thường được sử dụng để truy cập và giải mã nội dung

video được phân phát qua hệ thống IPTV , trong khi PC thường được sử dụng để

truy cập các dịch vụ Internet. Các loại phần mềm được sử dụng trong PC thường

phụ thuộc vào loại nội dung truyền hình Internet. Ví dụ như, để download các

chương trình truyền hình từ trên mạng Internet, đôi khi cần phải cài đặt các phần

mềm media cần thiết để xem được nội dung đó. Hay hệ thống quản lí bản quyền

cũng cần để hỗ trợ cơ chế truy cập.

♦ Về giá thành

Phần trăm nội dung chương trình được phân phát qua mạng Internet công

cộng tự do thay đổi. Điều này khiến các công ty truyền thông đưa ra các loại

dịch vụ dựa trên mức giá thành. Giá thành các loại dịch vụ IPTV cũng gần giống

với mức phí hàng tháng của truyền hình truyền thống. Các nhà phân tích mong

rằng truyền hình Internet và IPTV có thể hợp lại thành 1 loại hình dịch vụ giải

trí.

4

4. Cơ sở hạ tầng mạng IPTV

Hình 1.1 mô hình hệ thống IPTV

♦ Trung tâm dữ liệu

Cũng được biết đến như là “đầu cuối - headend”. Trung tâm dữ liệu IPTV

nhận nội dung từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm truyền hình địa phương, các

nhà tập hợp nội dung, nhà sản xuất, qua đường cáp, trạm số mặt đất hay vệ tinh.

Ngay khi nhận được nội dung, một số các thành phần phần cứng khác nhau từ

thiết bị mã hóa và các máy chủ video tới bộ định tuyến IP và thiết bị bảo mật

giành riêng được sử dụng để chuẩn bị nội dung video cho việc phân phối qua

mạng dựa trên IP. Thêm vào đó, hệ thống quản lý thuê bao được yêu cầu để quản

lý hồ sơ và phí thuê bao của những người sử dụng. Chú ý rằng, địa điểm thực

của trung tâm dữ liệu IPTV được yêu cầu bởi hạ tầng cơ sở mạng được sử dụng

bởi nhà cung cấp dịch vụ.

♦ Mạng truyền dẫn băng thông rộng

5

Việc truyền dẫn dịch vụ IPTV yêu cầu kết nối điểm – điểm. Trong trường

hợp triển khai IPTV trên diện rộng, số lượng các kết nối điểm – điểm tăng đáng

kể và yêu cầu độ rộng băng thông của cơ sở hạ tầng khá rộng. Sự tiến bộ trong

công nghệ mạng trong những năm qua cho phép những nhà cung cấp viễn thông

thỏa mãn một lượng lớn yêu cầu độ rộng băng thông mạng. Hạ tầng truyền hình

cáp dựa trên cáp đồng trục lai cáp quang và các mạng viễn thông dựa trên cáp

quang rất phù hợp để truyền tải nội dung IPTV.

♦ Thiết bị người dùng IPTV

Thiết bị người dùng IPTV (IPTVCD) là thành phần quan trọng trong việc

cho phép mọi người có thể truy xuất vào các dịch vụ IPTV. Thiết bị này kết nối

vào mạng băng rộng và có nhiệm vụ giải mã và xử lý dữ liệu video dựa trên IP

gửi đến. Thiết bị người dùng hỗ trợ công nghệ tiên tiến để có thể tối thiểu hóa

hay loại bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của lỗi, sự cố mạng khi đang xử lý nội dung

IPTV

♦ Mạng gia đình

Mạng gia đình kết nối với một số thiết bị kĩ thuật số bên trong một diện

tích nhỏ. Nó cải tiến việc truyền thông và cho phép chia sẻ tài nguyên (các thiết

bị) kĩ thuật số đắt tiền giữa các thành viên trong gia đình. Mục đích của mạng gia

đình là để cung cấp việc truy cập thông tin, như là tiếng nói, âm thanh, dữ liệu,

giải trí, giữa những thiết bị khác nhau trong nhà. Với mạng gia đình, người dùng

có thể tiết kiệm tiền và thời gian bởi vì các thiết bị ngoại vi như là máy in và

máy scan, cũng như kết nối Internet băng rộng, có thể được chia sẻ một cách dễ

dàng

II. Lý thuyết cơ bản về hệ thống mạng IP

1. Lý thuyết cơ bản hỗ trợ trong mạng IPTV

6

Việc đóng gói các chương trình video bao gồm việc chèn và tổ chức các

dữ liệu video thành các gói riêng biệt.

1.1 Tổng quan về mô hình truyền thông IPTV (IPTVCD)

Mô hình truyền thông trong IPTV có 7 lớp (và một lớp tùy chọn) được

xếp chồng lên nhau.

Các dữ liệu video ở phía thiết bị gửi được truyền từ lớp cao xuống lớp

thấp trong mô hình IPTV, và được truyền đi trong mạng băng rộng bằng các giao

thức của lớp vật lí. Ở thiết bị nhận, dữ liệu nhận được chuyển từ lớp thấp nhất

đến lớp trên cùng trong mô hình IPTV.

Hình 1.2: Mô hình truyền thông IPTV

Do đó, nếu một bộ mã hóa gửi chương trình video đến một thiết bị IPTV

của khách hàng, thì phải chuyển qua các lớp trong mô hình IPTV ở cả phía thiết

bị nhận và thiết bị gửi. Mỗi lớp trong mô hình IPTV độc lập với nhau và có chức

năng riêng. Khi chức năng này được thực hiện, dữ liệu video được chuyển đến

7

lớp tiếp theo trong mô hình IPTV. Mỗi lớp sẽ thêm vào hoặc bỏ đi phần thông

tin điều khiển của các gói video trong quá trình xử lí. Thông tin điều khiển chứa

các thông tin giúp thiết bị có thể sử dụng gói dữ liệu đúng chức năng của nó, và

thường được định dạng như các header hoặc trailer. Bên cạnh việc truyền thông

giữa các lớp, còn có các liên kết ảo giữa các tầng cùng mức. 7 lớp và 1 lớp bổ

sung trong mô hình IPTV có thể được chia làm 2 loại: các lớp cao và lớp thấp.

các tầng cao hơn thì quan tâm nhiều hơn tới các ứng dụng của IPTV và các định

dạng file, trong khi các tầng thấp hơn thì quan tâm tới việc truyền tải các nội

dung.

Mô hình IPTV và truyền tải các nội dung MPEG:

♦ Lớp mã hóa video

Quá trình truyền thông bắt đầu ở lớp mã hóa, các tín hiệu tương tự hoặc số

được nén. Tín hiệu lối ra của bộ nén là các dòng MPEG cơ bản. Các dòng

MPEG cơ bản được định nghĩa là các tín hiệu số liên tục thời gian thực. Có

nhiều loại dòng cơ bản. VD, âm thanh được mã hóa sử dụng MPEG được gọi là

“dòng âm thanh cơ bản”. Một dòng cơ bản thực ra chỉ là tín hiệu thô ra từ bộ mã

hóa. Các dòng dữ liệu được tổ chức thành các khung tại lớp này. Các thông tin

chứa trong một dòng cơ bản có thể bao gồm:

+Loại khung và tốc độ.

+Vị trí của những block dữ liệu trên màn hình.

+Tỉ số cạnh.

+Các dòng cơ bản là nền tảng để tạo nên các dòng MPEG.

♦ Lớp đóng gói video

Để truyền các dòng âm thanh, dữ liệu và hình ảnh cơ bản qua mạng số,

mỗi dòng cơ bản này phải được chuyển đổi sang một dòng được chèn của gói

PES đã được đánh dấu thời gian (PES- parketized Element Stream ). Một dòng

PES chỉ bao gồm một loại dữ liệu từ một nguồn. Một gói PES có thể có kích

8

thước khối cố định hoặc thay đổi, có thể lên tới 65536 byte/gói. Bao gồm 6 byte

header, và số byte còn lại chứa nội dung chương trình.

Do bản chất của mạng, thứ tự hay chuỗi các khung video từ lối ra của

trung tâm dữ liệu IPTV có thể khác thứ tự các khung do các thiết bị của người

dùng nhận được. Do đó, để giúp đỡ quá trình đồng bộ, các hệ thống dựa trên

MPEG thường dán nhãn các gói PES khác nhau trong chuỗi video.

Có 2 loại nhãn thời gian được sử dụng đối với mỗi gói PES: nhãn thời

gian trình diễn (PTS), và nhãn thời gian giải mã (DTS):

+ PTS--- nhãn thời gian trình diễn có giá trị thời gian 33 bit, được đặt

trong trường PES header. Mục đích của việc sử dụng PTS cho mỗi gói là để xác

định xem khi nào và theo trật tự nào thì gói đó được xem (bởi người xem).

+ DTS--- nhãn giải mã để sử dụng giúp bộ giải mã ở thiết bị của người sử

dụng biết khi nào xử lí gói đó.

Như đã chỉ ra ở trên, thứ tự các gói được truyền đi qua mạng khác với thứ

tự các gói nhận được ở thiết bị của người sử dụng. Thiết bị người sử dụng IPTV

sẽ dùng các nhãn PTS và DTS để tái tạo lại nội dung video gốc. Bên cạnh việc

gửi đi các nội dung nén MPEG-2, PES còn có khả năng truyền tải các khối

H.264/AVC qua mạng IPTV.

9

Hình 1.3: Ứng dụng nhãn thời gian với các gói MPEG PES

♦ Lớp cấu trúc dòng truyền tải

Lớp tùy chọn này được sử dụng rộng rãi trong nhiều ứng dụng khác nhau.

Lớp này hoạt động như một lớp trung gian giữa các nội dung được nén MPEG-2,

H.264/AVC ở lớp cao hơn và các lớp thấp hơn trong mô hình IPTV. Giao thức

RTP chính là lõi của lớp này và thường là block cơ sở hỗ trợ truyền dòng nội

dung theo thời gian thực qua mạng IP.

Chú ý rằng, kĩ thuật RTP thường được triển khai trong các mạng không

đảm bảo chất lượng dịch vụ QoS để truyền các dịch vụ IPTV. Mặc dù RTP giúp

làm tăng khả năng các dòng tới đích trong trật tự đúng, nhưng không được thiết

kế để đảm bảo các mức chất lượng dịch vụ. Do đó, trách nhiệm của nhà cung cấp

dịch vụ là đảm bảo video luôn được ưu tiên khi chúng được truyền đi trong hạ

tầng mạng.

♦ Lớp giao thức truyền tải thời gian thực

Lớp tùy chọn này được sử dụng rộng rãi trong nhiều ứng dụng khác nhau.

Lớp này hoạt động như một lớp trung gian giữa các nội dung được nén MPEG-2,

H.264/AVC ở lớp cao hơn và các lớp thấp hơn trong mô hình IPTV. Giao thức

RTP chính là lõi của lớp này và thường là block cơ sở hỗ trợ truyền dòng nội

dung theo thời gian thực qua mạng IP.

Chú ý rằng, kĩ thuật RTP thường được triển khai trong các mạng không

đảm bảo chất lượng dịch vụ QoS để truyền các dịch vụ IPTV. Mặc dù RTP giúp

làm tăng khả năng các dòng tới đích trong trật tự đúng, nhưng không được thiết

kế để đảm bảo các mức chất lượng dịch vụ. Do đó, trách nhiệm của nhà cung cấp

dịch vụ là đảm bảo video luôn được ưu tiên khi chúng được truyền đi trong hạ

tầng mạng.

♦ Lớp truyền tải

10

Thông thường các gói RTP là dạng đầu vào của lớp truyền tải. Điều đáng

chú ý là có thể ánh xạ trực tiếp các gói MPEG-TS sang payload giao thức của

lớp truyền tải.

Lớp truyền tải IPTV được thiết kế để đảm bảo các kết nối đầu cuối là tin

cậy. Nếu dữ liệu tới thiết bị người nhận không đúng. Lớp truyền tải sẽ truyền lại.

Lớp truyền tải thông báo với lớp trên để có các thông tin chính xác hơn.

TCP và UDP là 2 giao thức quan trọng nhất được sử dụng ở lớp này.

a) Sử dụng TCP để định tuyến các gói IPTV

TCP là giao thức cốt lõi của bộ giao thức internet và được xếp vào loại

định hướng kết nối. Điều này cơ bản có nghĩa là kết nối được thiết lập giữa đầu

cuối nhà cung cấp và thiết bị IPTV của người sử dụng để truyền các chương

trình qua mạng.

TCP có khả năng điều khiển lỗi xảy ra trong quá trình truyền các chương

trình qua mạng. Các lỗi như mất gói, mất trật tự gói,hoặc lặp gói thường gặp

trong môi trường truyền IPTV. Để xử lí các tình huống này, TCP sử dụng hệ

thống các số liên tục để cho phép thiết bị gửi có thể gửi lại các dữ liệu hình ảnh

bị mất hoặc hỏng. Hệ thống số liên tục này là trường có độ dài 32 bit trong cấu

trúc gói. Trường đầu tiên chứa chuỗi số bắt đầu của dữ liệu trong gói và trường

thứ hai chứa giá trị của chuỗi số tiếp theo mà video server đang đợi (mong) nhận

trở lại từ IPTVCD.

11

Hình 1.4: Cơ chế điều khiển luồng của TCP

Bên cạnh việc sửa các lỗi có thể xảy ra trong quá trình truyền nội dung

video qua mạng IP băng rộng, TCP còn có điều khiển luồng dữ liệu. Điều này có

thể đạt được bằng cách sử dụng trường kích thước cửa sổ, với thuật toán được

gọi là cửa sổ trượt. Giá trị trong trường này xác định số các byte có thể truyền đi

qua mạng trước khi nhận được xác nhận từ phía thiêt bị nhận.

Trong môi trường IPTV, giá trị trường kích thước cửa sổ chính là kích

thước vùng đệm trong IPTVCD trừ đi lượng nội dung đã có trong vùng đệm tại

một thời điểm. Dữ liệu này sẽ được giữ cho tới khi bản tin thông báo đã nhận

được gửi về từ IPTVCD.

Khi giá trị của trường này bằng 0, IPTVCD ở phía đầu thu sẽ không đủ

khả năng xử lí các dữ liệu IPTV ở tốc độ đủ lớn. Khi đó, TCP sẽ chỉ thị cho

video server dừng hoặc làm chậm lại tốc độ gửi các gói dữ liệu tới IPTVCD.

Điều này sẽ đảm bảo rằng IPTVCD sẽ không bị tràn các gói dữ liệu tới. Khi

12

IPTVCD đã xử lí xong các các gói dữ liệu trong vùng đệm và video server đã

biết được điều đó thì giá trị tại vùng đệm sẽ tăng lên, và video server sẽ bắt đầu

truyền tiếp các nội dung. Trong môi trường IPTV lí tưởng, số của cửa số được

báo về từ IPTVCD sẽ báo cho server biết không gian vùng đệm còn trống chính

là tốc độ mà tại đó các nội dung video được gửi đi từ video server.

Các cổng TCP và Socket: Mỗi điểm cuối của một liên kết IPTV thì có một

địa chỉ IP và một giá trị cổng liên quan. Vì thế mỗi liên kết có 4 thành phần khác

nhau:

+ Địa chỉ IP của video server.

+ Số của cổng của video server.

+ Địa chỉ IP của IPTVCD.

+ Số của cổng của IPTVCD.

Việc kết hợp địa chỉ IP và số của cổng cho phép một tiến trình trên

IPTVCD có thể liên lạc trực tiếp với tiến trình đang chạy trên một trong các máy

server được đặt ở trung tâm dữ liệu IPTV.

Socket cũng là một thành phần quan trọng khác trong mô hình truyền

thông IP. Một socket về cơ bản là một giao diện ứng dụng chương trình (API),

được sử dụng để làm việc liên lạc giữa các tiến trình đang chạy trên một thiết bị

IP. Một socket được thiết lập bằng cách kết hợp địa chỉ IP với số của cổng.

13

Hình 1.5: Quá trình truyền thông trong mạng IPTV

Để hiểu hơn về mối liên hệ giữa địa chỉ IP và socket xét các bước để thiết

lập một kênh truyền thông giữa một tiến trình chạy trên IPTVCD và một tiến

trình chạy trên trung tâm cung cấp dữ liệu IPTV. Bước được mô tả như sau:

(1) Chuẩn bị dữ liệu: Tiến trình gửi chạy trên hệ thống server dòng IPTV

chuẩn bị nội dung và gọi module truyền thông TCP/IP để truyền các dữ liệu tới

một tiến trình đang chạy trên một IPTVCD. Các tiến trình truyền thông bắt đầu

và thông tin header được thêm vào nội dung khi truyền qua các lớp trong

IPTVCD.

(2) Thiết lập kết nối logic TCP: Cả 2 đầu kết nối đều được định nghĩa bởi

một địa chỉ IP và một số cổng, kết hợp giữa địa chỉ IP và số cổng gọi là socket.

Hệ thống địa chỉ đối với liên kết truyền thông bao gồm các thành phần sau:

+ Giao thức.

+ Địa chỉ IP của máy chủ IPTV.

+ ID của tiến trình chạy trên máy chủ IPTV .

+ Địa chỉ IP của IPTVCD.

+ ID của tiến trình chạy trên IPTVCD.

(3) Truyền dữ liệu: Truyền thông bắt đầu thông qua socket giữa 2 tiến

trình từ phía IPTV server đến IPTVCD.

(4) Quản lí các dòng nội dung IPTV:Giao thức TCP quản lí các dòng

IPTV trong khi kết nối được thiết lập.

(5) Hủy bỏ kết nối: Khi hoàn thành việc truyền các nội dung IPTV,

IPTVCD hoặc trung tâm dữ liệu sẽ hủy bỏ socket và kết nối mạng.

b) Sử dụng UDP để định hướng các gói IPTV:

14

UDP là giao thức thuộc về bộ giao thức Internet. UDP cho phép máy chủ

kết nối với mạng băng rộng để gửi tới các IPTVCD dịch vụ truyền hình quảng bá

có chất lượng hài lòng người dùng. UDP giống với TCP nhưng là phiên bản sơ

lược hơn, đưa ra cho số lượng tối thiểu các dịch vụ truyền tải. UDP là giao thức

không liên kết, điều đó có nghĩa là kết nối giữa video server và IPTVCD không

cần phải thiết lập trước khi dữ liệu được truyền đi. Video server đơn giản chỉ

thêm vào địa chỉ IP đích và số cổng vào datagram và gửi tới cơ sở mạng để phân

phát tới địa chỉ IP đích. Khi trên mạng, UDP sử dụng cách tốt nhất để cố gắng

thu được dữ liệu về điểm đích của nó. Chú ý rằng UDP sử dụng các khối dữ liệu

được gọi là các datagram để truyền nội dung qua mạng.

Ưu điểm và nhược điểm của UDP:

+ Ưu điểm của UDP:

Không có ngắt trong quá trình truyền nội dung video: không có trễ trong

quá trình phân phối ngay cả khi trong mạng có các gói bị trễ hoặc bị hỏng.

Ngược lại, khi sử dụng TCP, có thể xảy ra sự ngắt quãng khi phải chờ các gói bị

trễ và các khung hình tới hoặc phải chờ các gói bị hỏng được thay thế.

Dung lượng thấp: Kích thước header của UDP chỉ bao gồm có 8 byte

trong khi TCP header chiếm tới 20 byte.

Tốc độ thiết lập kết nối: thời gian thiết lập và hủy bỏ kết nối giữa IPTVCD

và các thiết bị ở trung tâm dữ liệu IPTV ngắn. Do đó, việc phân phối các gói sử

dụng giao thức UDP thường nhanh hơn so với sử dụng giao thức TCP.

Hỗ trợ truyền một chiều: UDP không yêu cầu đường về, do đó cho phép

các công ty sử dụng vệ tinh có thể truyền nội dung IPTV truyền đa điểm tới

khách hàng của mình.

+ Nhược điểm của UDP:

Mặc dù UDP là nhanh chóng và hiệu quả đối với các ứng dụng cần thời

gian, và sẽ là không hiệu quả trong trường hợp:

15

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!