Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tự vị tiếng nói miền Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Vương Hồng Sển
Tự vị tiếng nói
miền Nam
Nhà xuất bản Trẻ
4 TVTNMN
VƯƠNG HỒNG SỂN 5
Lời giới thiệu
Trước 1995, những khi thắc mắc về những từ gốc Trung Hoa, gốc
Khơ-me hay những địa danh, tôi thường đến nhà chú Vương - đó là
cách tôi xưng hô với Cụ do sự cách biệt về tuổi tác và lòng kính trọng.
Nay ngồi đọc lại từng trang quyển ” Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam”,
tôi có cảm tưởng như đang nghe chú Vương nói về các từ gốc Triều
Châu: lì xì, thèo lèo, mửng...; các từ gốc Quảng Đông: hẩu, xá xíu,
xiếu mại...; các từ gốc Khơ-me: bưng, nóp, bò hóc, bò ót...; và gốc
Pháp: xà ích, dinh tê.
Về từ “dinh tê” chẳng hạn, Cụ Vương kể rằng đó là từ nói trại
động từ “rentrer” của Pháp theo lối phát âm của đồng bào miền
Bắc, chỉ việc những người tản cư khi Pháp tái chiếm các đô thị sau
1945, sau thời gian sống trong vùng tự do, vì nhớ tiếc đời sống thị
thành đã trở về sống ở vùng Pháp ngụy. Rồi nhân đó, Cụ sẽ kể từ
“tụt tạt” là một từ nảy sinh trong thời kháng chiến, cũng ở miền
Bắc, chỉ việc mấy người theo kháng chiến nhát gan, khi đối diện
với binh lực đối phương thường tìm cách “tụt” xuống phía sau hay
“tạt” sang bên này bên kia để tránh địch.
Cách trình bày do sự liên tưởng trong lúc hứng thú khiến đôi
khi Cụ không giữ đúng lối sắp xếp các mục từ thông thường trong
từ điển. Sau khi kể các tư liệu về lịch sử, địa lý, dân cư... của tỉnh
Bà Rịa chẳng hạn, Cụ kể luôn tất cả các tỉnh Nam Bộ, từ Bạc Liêu
đến Vĩnh Long theo thứ tự a,b,c, cũng với đầy đủ các chi tiết về
mỗi tỉnh. Các địa danh về cù lao, cửa, núi, sông, giồng, gò... cũng
được trình bày theo cách ấy.
Tuy có hơi mất thời giờ trong sự tra cứu, nhưng người đọc sách
nhờ giọng nói hóm hỉnh của tác giả thấy hứng thú hơn sự tiếp thu
các kiến thức sâu rộng của Cụ.
6 TVTNMN
Và từ chỗ cảm thấy mình gần gũi với tác giả hơn, ta sẽ dễ dàng
chia sẻ với Cụ những gian nan vất vả của nhà nghiên cứu đi sâu
vào nhiều ngành chuyên môn (địa lý, lịch sử, ngôn ngữ, dân tộc
học, phong tục học....) với một sự tận tụy không mệt mỏi vì tinh
thần tôn thờ sự chính xác. Sau khi giảng giải từ “dỏ” trong địa
danh “Dỏ Sa” chẳng hạn, Cụ đặt vấn đề: có phải “dỏ” đã do sự phát
âm sai biến đổi thành “vỏ” trong các địa danh Vỏ Đắc, Vỏ Đắt, Vỏ
Đất? Tác giả cũng đã chia sẻ cùng người đọc nhiều nỗi băn khoăn
trong việc giảng giải địa danh “Giu Gia”, tên nôm của huyện Phong
Thạnh ngày trước nay thuộc tỉnh Sóc Trăng, chẳng hạn.
Đọc “Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam” của cụ Vương Hồng Sển,
chúng ta sẽ vừa tìm được nhiều chỉ dẫn quí báu về địa danh, về
tiếng nói Nam Bộ xưa và nay, vừa được thưởng thức cách kể chuyện
rất duyên dáng của một cụ già vừa có hiểu biết sâu rộng về nhiều
ngành chuyên môn, vừa rất từng trải trong cuộc sống.
TP.Hồ Chí Minh, 15.4.1998
Bùi Đức Tịnh
Giới thiệu và hiệu đính
VƯƠNG HỒNG SỂN 7
Cảm nghĩ
Nhân đọc “Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam” - sách tái bản trong loạt
sách kỷ niệm 300 năm SG-TP.HCM.
Quyển Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam (nguyên bản của soạn giả ghi
“Tự Vị tiếng Việt miền Nam”) đã được độc giả đón nhận với sự nồng
nhiệt, mặc dầu đề tài như khô khan, của địa phương. Thật ra, ngay
từ trước 1975, khi đất nước chưa thống nhất, người quê Nam Bộ đã
tập kết ở miền Bắc trong thời gian dài, cưới vợ lấy chồng, sự giao
lưu thông cảm khá rộng rãi. Người khó tánh có thể cho rằng những
từ ngữ trong Tự Vị này là phương ngữ (tiếng lóng) của địa phương,
nhưng gẫm lại, nếu nó đã được vài triệu người dùng đến thì khó gọi
là tiếng lóng, thổ ngữ... vài từ ngữ trong Tự Vị này vẫn còn gây ngạc
nhiên, khó hiểu - hoặc hiểu bằng trực giác - đối với chính người sống
ở Nam Bộ nhưng tại địa phương khác, tỉnh khác, hoặc đã lên Sài
Gòn từ thuở bé.
Hồi cuối thế kỷ thứ 19, Huỳnh Tịnh Của đã cho in tại Sài Gòn
quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, rất hữu ích, nghiêng về tiếng nói
ở phía Nam. Huỳnh tiên sinh là người gốc Bà Rịa, nên đã thiên về
tiếng nói ở miền Đông Nam Bộ. Lần này, non 100 năm sau, tận phía
Hậu Giang, nơi có nhiều người dân tộc Khơ-me, nhiều người Hoa,
ông Vương Hồng Sển ngẫu nhiên đã phản hồi lại, với thiện chí của
kẻ đi sau.
Quyển Tự Vị này gẫm lại là một sự góp nhặt tư liệu, chưa sắp xếp
cho ổn thỏa, khó tra cứu, nhưng làm sao sắp xếp được? Nên nhớ ông
Vương chuyên chơi đồ sành sứ, ham thích giao du, ưa đọc sách in từ
xưa, siêng ghi chép, gặp cái gì lạ là ghi, qua nhiều người bạn già đã
mất rồi, mất trước ông. Ông lại thích nghiên cứu sách của người Pháp
8 TVTNMN
viết về Nam Bộ, ba con của ông là dân Sốc Trăng rất am tường về
người Khơ-me, người Hoa. Đã là tiếng nói phổ biến của địa phương,
nhất là những tên đất, dễ đặt nhiều giả thiết, chính ông Vương cũng
ghi rõ các giả thiết. Tiếng Việt, tiếng Hoa là đơn âm, dễ trùng lặp
nhau, cũng như tiếng Khơ-me khi nói nhanh gần như đơn âm, chính
người Khơ-me khi được hỏi về địa danh xưa cũng mỉm cười, dễ dãi.
Miễn là sống hòa thuận trong thôn xóm, giúp đỡ nhau thì Bố Thảo,
Cái Răng, hiểu sao cũng được.
Bạn đọc sẽ ngạc nhiên khi thấy nhiều tiếng khó giải thích lại được
ông giải thích tường tận, như một nhà bác học. Ngược lại, thí dụ như
cù lao Tân Dinh ở sông Hậu Giang, ngang Sốc Trăng đã được giải thích
ở Gia Định Thành Thông Chí, là dinh tạm của Nguyễn Ánh, nhưng
ông đã gây phức tạp, rối rắm thêm. Hoặc hàng hóa cũ, ở nơi đấu giá
thời Pháp gọi “lạc-xon” đã được Nguyễn Liên Phong chú thích từ 1909
là do chữ “l’auction”, kiểu bán có nhân viên tư pháp đứng đấu giá đồ
xưa... Ông đã đọc và ghi lại rất nhiều sách, tánh của ông là cứ mua
để dành tra cứu, gần như không thích đi thư viện. Ông đã công bằng
khi nhắc đến các ông bạn già là Lê Ngọc Trụ, Lê Thọ Xuân, Nguyễn
Hiến Lê. Dường như quên ông Thuần Phong!
Bài hát của Trần Tiến đã có lời lẽ duyên dáng: “Thấy em nhỏ xíu,
anh thương”. Nhỏ xíu là tiếng duyên dáng phía Nam, theo chủ quan
của tôi, xíu là tiểu, là nhỏ, đọc theo giọng người Hoa, xíu, xỉu. Bắc
Nam một nhà.
Dám mong các độc giả, nhất là các bạn trẻ sử dụng tài liệu đậm
đặc này, bổ sung, giải thích thêm. Khẳng định đúng hay sai một cách
sổ toẹt chẳng ích lợi gì cả. Thế hệ của ông Vương Hồng Sển chỉ biết
ghi vào sổ tay chi chít, chưa quen dùng máy ghi âm cỡ nhỏ hoặc máy
vi tính.
Soạn quyển Tự Vị như ông, quả là cống hiến lớn cho đất nước.
Một kiểu di chúc về “cổ ngoại” đắt giá hơn vàng. Vàng mua sắm được,
nhưng tâm huyết của con người làm sao mua sắm nhanh chóng?
Sơn Nam
VƯƠNG HỒNG SỂN 9
Bài Tựa thâu gọn cho cuốn
Tự Vị Tiếng Nói miền Nam
Tôi vốn học lem nhem, nhưng vì thấy Tiếng Nói miền Nam
đang xa lần cái gốc tự nhiên của nó nên tôi đã soạn cuốn Tự Vị
này và nhờ hai bạn Lê Ngọc Trụ(1) và Nguyễn Hiến Lê(2) duyệt khá
kỹ, rồi tôi giao những thẻ rời cho hai bạn trẻ Nguyễn Minh Hoàng,
Nguyễn Q. Thắng tìm kiểm và bổ túc, nhưng cho đến hôm nay, sách
vẫn chưa thành hình.
Bài tựa cũ, tôi viết quá dài(3), nay vì việc ấn loát tốn kém nhiều,
nên tôi viết lại bài tựa này , và chỉ lấy một tỷ dụ nhỏ làm mẫu, tỷ
như từ “cần đóp” là một loại lá cây dừa nước dùng để lợp nhà, tức lá
sắp xếp từ lá rời khâu lại nguyên tờ, và vẫn khác và nên phân biệt với
lá nguyên tờ mà miền Nam gọi “lá buông”. Cả hai từ ấy “cần đóp”
và “buông” theo tôi đều do tiếng Miên của người Đàn Thổ (nay gọi
Cam Bu Chia) biến ra tiếng Việt, nếu không cắt nghĩa tường tận thì
lần hồi sẽ không ai biết nữa.
(1) Lê Ngọc Trụ (1909-1979) Giáo sư, tác giả nhiều công trình nghiên cứu ngôn ngữ học
Việt Nam (BT)
(2) Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) Học giả, tác giả hơn 120 bộ sách về nhiều lĩnh vực: Văn
học, ngôn ngữ học (BT)
(3) Tuy vậy, chúng tôi vẫn cho in ở phụ lục vì nhận thấy bài có nhiều điều có thể minh họa
cho sách (BT)
10 TVTNMN
Vả lại sức học Miên Ngữ của tôi rất non nớt, tôi không dám cho là
đúng, là chắc chắn, tuy vậy cũng tạm ghi lại để chờ người cao kiến dạy
thêm, thì: kon đâp slék, theo một sách Pháp viết, là assembler des
feuilles (sắp lá), slek mo kăn đâp là “une paillette” (một sắp lá).
Sau đó vì sống chung đụng nhau giữa người Thổ và Việt, ta đã
thâu gọn vào tiếng miền Nam này, ra từ “Lá cần đóp” (lá sắp kết)
và lá buông (nguyên tờ).
Đến từ “buông” cũng có chút rắc rối, trong Nam này, phân biệt:
rạch Lá Buôn là rạch chạy dưới chòm lá loại lá cây kè, dùng làm
quạt và “rạch lá buông” (buông có g) là rạch dưới cây dừa nước, lá
lấy làm lá để chép kinh Phạn (sanscrit), hoặc viết Thổ ngữ.
Tôi thêm ra đây một từ khác, cũng mượn của Cơ Me (khmer) là
từ “Bưng” “Bưng” là étang, ao nước sệt sệt, ta ghép với một từ Hán
“Biền” hóa ra: “bưng biền” (1 nôm, 1 chữ).
Truy ra “trep bươn” là herbes flottantes sur les étangs, hóa ra
“buôn” (không g) và buông (có g) như kể trên.
Tiếng Miên tôi không biết nhiều, nhưng vẫn gạn đi gạn lại mới
dám dùng, và mấy hàng này kể như lời trối.
Cẩn Tự
S.
(viết ngày 5.7.1993)
VƯƠNG HỒNG SỂN 11
Phàm lệ
- Cách sắp xếp, lối viết tắt, xin theo lệ cũ, tự điển sẵn có, không cần
nói lại.
- PCGBCTVK: Petit cours de géographie de la Basse Cochinchine
par Trương Vĩnh Ký 1ère édition, Saigon, Imprimerie du
Gouvernement, 1875.
- DĐTLTVK: Dư đồ thuyết lược, Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn,
Imprimerie de la Mission, 1887.
- L.F.C.P.: Lexique français cambodgien par A. Pannetier, Avignon
H. Auzac et J. Augier, 1907.
- L.E.C. et C.D.B: Les expéditions de Chine et de Cochinchine par
de Bazancourt, Amiot, Paris, 1861-1862.
- L.P.A.D.L.C.P.V: Les premières années de la Cochinchine par
Paulin Vial, 1874.
- L.S.N.C.M.N: Lịch sử nội chiến miền Nam - Tạ Chí Đại Trường,
Sài Gòn, 1972.
- L.R.A.D.R: Le royaume d’Annam et les Annamites par Dutreuil
de Rhins, 1879.
- Launay: Histoire ancienne et moderne de l’Annam (Tong King et
Cochinchine) par l’abbé Adr. Launay, Challamel, Paris, 1884.
- N.V: Nam Việt (bây giờ gọi là Nam Bộ) BV (Bắc Việt - Bắc bộ); TV
(Trung Việt)....
12 TVTNMN
- C.C.B.P: La Cochinchine Contemporaine par A. Bouinais et Paulus,
Challamel aimé 1884.
- H.E.C.L.P.B: Histoire de l ‘expédition de Cochinchine en 1861 par
Léoppold Pallu de la Barrière, Berger Levrault Paris, 1888.
- G.D.T.C.A: Giadinh thung chi, traduction Aubaret, Imprimerie
Impériale Paris 1863.
- NKLTDĐCTTT: Nam Kỳ lục tỉnh dư địa chí Thượng Tân Thị dịch,
1944.
- ĐNNTCLTNV: Đại Nam nhất thống chí Lục tỉnh Nam Việt, Nguyễn
Tạo dịch, 1959 (1 và 2).
- GĐTTCNT: Gia Định Thành thông chí, Nguyễn Tạo dịch, 1972 (ba
tập 1,2,3).
- Đ.N.V.T: Đồng Nai văn tập.
- S.Đ: Tập san Sử Địa.
- Baurac: Dr J.C. Baurac: La Cochinchine et ses habitants: provinces
de l’Ouest, 1894; provinces de l’Est, 1899.
- Carte de la Cochinchine dressée d’après la carte de Mr. Charpentier,
publiée à Saigon en 1868 et insérée dans l’ouvrage “Les premières
années de la Cochinchine de Paulin Vial (1874).
- Carte de la Cochinchine dressée d’après la carte de Dutreuil de
Rhins et publiée au Dépôt de la Marine en 1881 (Histoire de
l’expédition de Cochinchine 1881).
- V.N.M.L. Việt Nam máu lửa, Nghiêm Kế Tổ, Hà Nội, 1954.
- V.N.S.L: Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, Hà Nội, 1938.
- V.N.T.Đ: Việt Nam tự điển, Lê Văn Đức, Saigon, 1972.
VƯƠNG HỒNG SỂN 13
Arroyo Commercial: đd., tên Pháp
của Rạch Chanh, chữ gọi Đăng
Giang. Năm Mậu Tuất (1778)
chúa Nguyễn Ánh lội qua sông
nầy thoát khỏi bị Tây Sơn bắt.
Có thuyết nói ngài nhờ trâu đưa
qua, thuyết khác nói ngài cỡi trên
lưng sấu cho thêm uy tín, có thần
nhơn phù hộ.
Ngày nay còn lại ba kiểu chén
trà ghi lại tích nầy:
1) Kiểu nói xa gần, vẽ cảnh
một người cầm lọng đứng bờ
sông bên kia, chờ thuyền bên
nầy chống qua rước. Có đề câu
thơ: Bình kiều nhơn quán độ,
chuyển sức tiểu chu lai”. Ký hiệu:
Ngoạn ngọc.
2) Kiểu thứ hai, vẽ y kiểu
nhứt, duy thơ đề: “Ngư gia độ
hoàng gia, Âm tinh ngộ đế tinh”.
(Ký dưới đáy hiệu Ngoạn ngọc).
3) Kiểu thứ ba, vẽ y hai kiểu
trên, nhưng không đề câu nào,
(hoặc tích đã phổ biến rộng, hoặc
chén riêng cho võ biền không cần
đề chữ).
Rạch Chanh (Đăng giang)
ngày xưa lẫy lừng danh tiếng,
dưới nước chứa đầy sấu dữ, ngày
nay cỏ mọc loán đầy, ghe thuyền
bỏ không dùng.
Loài sấu rất sợ tiếng động, chỗ
nào có sấu, khi tàu chạy qua lại
thường, sấu sợ rút đi hết.
Lời bàn phụ - Sách sử không
nói rõ Nguyễn Ánh lội ngang khúc
sông nào. Duy phải nhìn nhận
ngài có tài lội hay mới thoát khỏi
nạn dữ. Theo tôi ước định lội nơi
đầu vàm, từ Vàm Cỏ chạy qua,
Tây Sơn không dám rượt qua, vì
thuở ấy, sông Bến Lức là ranh giới
bờ cõi chia hai Tây Sơn và Đông
A
14 TVTNMN
Sơn, từ Sài Gòn xuống, mé bên
nầy thuộc Tây Sơn, lội qua sông,
mé bên kia thuộc Đông Sơn có
binh địch trấn giữ nên Tây Sơn
không dám qua và nhờ vậy nên
Nguyễn Ánh thoát nạn.
Arroyo de la Poste: đd., tên Pháp
của Bảo Định hà.
Có người dịch “Kinh Bót”
là sai, và nên cải chính là kinh
trạm. Poste (giống cái) là nhà
dây thép, chỗ gởi thơ từ. Ngày
xưa trong Nam chuyển vận thơ
từ theo đường thủy, nên gọi giang
trạm. Và thuở nay nói đi poste gởi
thơ chớ không nói đi bót gởi thơ.
Poste (giống đực) là sở cẩm ngoài
Bắc, trong Nam gọi bót phú lít
(poste de police) hoặc bót săn đầm
(gendarme).
Arroyo de la Poste, tên Việt là
Kinh Vũng Gù (Vũng Cù giang),
Hưng Hòa giang, Bảo Định hà,
v.v...
Arroyo de la Poste: đd., (trích
Monographie de la province de
Mỹ Tho in năm 1902, để cho
thấy con kinh nầy, ta gọi nhiều
tên khác nhau, đây chỉ nhắc tên
Bảo Định hà, dài bao dai và quan
trọng thế nào:
L’arroyo de la Poste, relie les
chefs-lieux de Tân An et de Mỹ
Tho. Il a 20 kilomètres de long sur
80 mètres de large; c’est un des
arroyos les plus fréquentés par
la batellerie indigène. En 1895
on a construit sur cet arroyo, à
Mỹ Tho, près de son embouchure
dans le grand fleuve, un pont
à travées mobiles semblable à
celui qui a été construit à Tân An.
L’arroyo de la Poste forme un dos
d’âne sur la limite du village de
Tinh Hà (monogr. My Tho, tr. 19).
Dịch. Kinh “Trạm Thơ” nối liền
hai tỉnh lỵ Tân An qua Mỹ Tho.
Dài 28 kilômét, bề ngang rộng 80
mét, ghe thương hồ bản xứ qua
lại náo nhiệt nhứt. Năm 1895 (1)
nơi đầu vàm trổ ra sông lớn, phía
Mỹ Tho, có bắc một cây cầu sắt,
nhịp cầu xây rút được, y một kiểu
vở như cầu đã bắc ở phía Tân An.
Arroyo de la Poste có nổi một giáp
nước nơi ranh làng Tịnh Hà.
(1) Nhờ câu này ta biết cầu sắt
Chợ Cũ Mỹ Tho có từ năm 1895.
Ngao Châu: đd., tên Hán của cù
lao Bãi Ngao (xem chữ ấy).
Ác Giùm Sơn: đd., tên chữ của núi
Ác Giùm (xem chữ ấy).
Ách, ông ách: dt. chức adjudant của
Pháp qua tiếng Việt, lúc còn quân
đội Pháp bên nầy, trên chức đội,
nhưng vẫn thuộc hàng hạ sĩ. Ách
tuổi già, trở nên khó tánh, hay
phạt hay quở những lính tay trơn,
còn nhớ nhà nhớ vợ, nên ông ách
thường được tặng thêm và tâng
lên hàng “ách xì xằng”, mới nghe
lại còn gần ngữ Pháp “adjudant”
hơn nữa.
Ải Vân: đd., tên núi, ở t. Quảng Nam,
thường có mây bao phủ trên chóp,
nơi đây có xây một ải. (Viết Hải
Vân, không đúng).
(Nhưng nay đã quá quen
dùng, và nên thông cảm, tức cả
hai danh từ: Ải Vân, Hải Vân,
đều dùng được, và không nên
“vua hơn nhà vua” (plus royaliste
que le roi!).
Những ai có từng đặt chơn nơi
Ải Vân này, đều công nhận quả là
một cảnh kỳ tú, “trên mây dưới
VƯƠNG HỒNG SỂN 15
biển”, gọi “Hải Vân” nếu không
cho là được thì cũng chưa sai chút
nào. Một tài tử màn ảnh Pháp
năm xưa từng khen với tôi: “nước
anh cảnh vật nào thua bên Thụy
Sĩ, như Ải Vân là một”, tưởng
cũng nên chép lại đây gọi dư âm
chơn tình không bịa.
Xin thêm: nhớ như trên đỉnh
có ba chữ Hán để lại đề: “Ải Vân
Quan” rõ ràng.
An Biên Phủ: đd., tên một phủ của
tỉnh Hà Tiên đất Lục tỉnh Nam
Kỳ đời đàng cựu, gồm ba huyện:
- Hà Châu (Hà Tiên)
- Long Xuyên (Cà Mau)
- Kiêng (sic) Giang (Rạch Giá)
(PCGBCTVK)
An Bình giang: đd., tên Hán của con
sông Cái Bè (xem sông Cái Bè).
An Giang tỉnh: đd., tên một trong
lục tỉnh Nam Kỳ đời đàng cựu,
gồm ba phủ tám huyện (nay là
tỉnh An Giang):
- Phủ:
1) Tuy Biên (Châu Đốc)
- Huyện:
1) Tây Xuyên (Cái Vừng, Ba
Rách, Long Xuyên)
2) Phong Phú (Cần Thơ)
- Phủ:
2) Tân Thành (Sa Đéc)
- Huyện:
1) Vĩnh An (Sa Đéc)
2) Đông Xuyên (Cái Vừng)
3) An Xuyên (Nha Mân)
- Phủ:
3) Ba Xuyên (Sốc Trăng)
- Huyện:
1) Phong Nhiêu (Bãi Xàu)
2) Phong Thạnh (Giu Gia)
3) Vĩnh Định (Ba Xuyên)
(PCGBCTVK)
An Giang Trấn: một trong tám
trấn đời Minh Mạng. Bảy trấn
kia là Nam Vang, Gò Sặt (Pursat), Vĩnh Thanh, Định Tường,
Phan Yên, Biên Hòa và Hà Tiên
(T.V.K.P.C.G.B.C)
An Giang danh nhơn (triều nhà
Nguyễn):
Cao Đức Hùng (Nha Mân)
(?-1797), chưởng cơ
Đoàn Văn Trường (Cái Vừng)
(?-1835), đô thống
Hồ Văn Trương (Sa Đéc)
(?-1803), chưởng cơ
Huỳnh Phước Bửu (Châu Đốc)
(?-?), chưởng cơ
Nguyễn Công Trọng (Nha
Mân) (?-1800), chưởng cơ
Nguyễn Văn Định (Nha Mân)
(?-1797), chưởng cơ
Nguyễn Văn Kỳ (Sa Đéc)
(?-1803), chưởng dinh
Nguyễn Văn Nhơn (Sa Đéc)
(?-1797), chưởng cơ
Nguyễn Văn Nhơn (Sa Đéc)
(1753-1820), chưởng quân quận
công
Nguyễn Văn Phụng (Sa Đéc)
(?-1800), chưởng cơ
Nguyễn Văn Tuyên (Sa Đéc)
(1763-1830), thống chế (theo Lê
Thọ Xuân)
An Hòa Giang: đd., xem sông hay
rạch An Hòa.
An Phú Giang: đd., tên Hán của
sông Vũng Liêm (xem chữ ấy).
An Thông Hà: đd., tên Hán của khúc
kinh từ rạch Ông nhỏ chảy vô Chợ
Lớn (PCGBCTVK).
An Thông hà nầy đào năm
1819, do sắc vua Minh Mạng sai
Huỳnh Công Lý (là cha vợ) đốc
xuất dân phu đào để nối liền từ