Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tư tưởng “Thân dân” là truyền thống lâu đời, đã có trong tư tưởng của những bậc tiền bối.DOC
MIỄN PHÍ
Số trang
22
Kích thước
189.5 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1058

Tư tưởng “Thân dân” là truyền thống lâu đời, đã có trong tư tưởng của những bậc tiền bối.DOC

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

TƯ TƯỞNG “THÂN DÂN”

MỞ BÀI:

Tư tưởng “Thân dân” là tư tưởng của dân tộc được hình thành và phát

triển xuyên suốt chiều dài lịch sử của nước ta. Trước hết chúng ta cần hiểu rõ

tư tưởng ”Thân dân” là gì? “Thân dân” có nghĩa là gần gũi, gắn bó với nhân

dân, Nhà nước lấy dân làm gốc, phải biết tin tưởng vào dân, dựa vào dân để

xây dựng và phát triển đất nước. Đồng thời cũng phải biết quan tâm đến đời

sống nhân dân, chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân thì nhân dân mới tin

tưởng và ủng hộ.

NỘI DUNG:

1) Tư tưởng “Thân dân” là truyền thống lâu đời, đã có trong tư tưởng

của những bậc tiền bối:

Tư tưởng “Thân dân” đã được hình thành từ các triều đại phong kiến,

tiêu biểu nhất là tư tưởng của Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi- những bậc danh

nhân đại tài của dân tộc. Trần Hưng Đạo đã thể hiện tư tưởng này qua câu nói

của ông vào tháng 6 năm 1300, Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm,

hỏi rằng: "Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì

kế sách như thế nào?" Hưng Đạo Vương trả lời: "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức

Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã,

đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản

binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng

người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy

yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được

quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa

giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế.

Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em

hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái,

nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là

sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì

thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì

phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo

thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan

thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.". Ông

đã biết coi trọng sức mạnh của nhân dân, dựa vào dân để đánh giặc giữ nước,

đây là một tư tưởng hết sức tiến bộ mà ở thời đại đó rất ít người có thể nhận

ra vì các triều đại phong kiến xưa kia chỉ coi dân là cỏ dại: “thảo dân”.

Tư tưởng “Thân dân” còn được Nguyễn Trãi thể hiện rõ nét hơn nữa

qua tư tưởng nhân nghĩa của mình. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là

một triết lý sâu sắc, cốt lõi, bao trùm toàn bộ cuộc đời ông. Nhân nghĩa là

thương dân, vì dân, an dân; nhân nghĩa là sự khoan dung, độ lượng; nhân

1

nghĩa là lý tưởng xây dựng đất nước thái bình… Tư tưởng nhân nghĩa của

Nguyễn Trãi kế thừa quan điểm nhân nghĩa Nho giáo, nhưng đã được mở

rộng, phát triển hơn, tạo nên dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.

Đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là một tư tưởng, hơn nữa, là một phương

pháp luận hết sức quan trọng. Trong toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Trãi mà

chúng ta còn lưu giữ được thì chữ “nhân” đã được nhắc đến 59 lần và chữ

“nghĩa” là 81 lần. Tổng cộng hai chữ “nhân”, “nghĩa” được ông sử dụng đến

140 lần. Qua đó, có thể thấy, một trong những quan điểm nền tảng trong hệ

thống tư tưởng của Nguyễn Trãi là “nhân nghĩa”. Tất nhiên, ở đây cần nhấn

mạnh rằng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, mặc dù kế thừa tư tưởng

nhân nghĩa của Khổng – Mạnh, nhưng cũng đã có sự khác biệt rất lớn so với

tư tưởng Khổng – Mạnh – nó mang ý nghĩa tích cực, mở rộng và nâng cao

hơn.

Nhân nghĩa, trong quan điểm của Nguyễn Trãi, trước hết được gắn chặt

với tư tưởng vì dân và an dân: “việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, “dùng quân

nhân nghĩa cứu dân khổ, đánh kẻ có tội”, “đại đức hiếu sinh, thần vũ bất sát,

đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân”(1). Như vậy, nhân nghĩa

chính là yêu nước, thương dân, là đánh giặc cứu nước, cứu dân. Nguyễn Trãi

đã coi “an dân” là mục đích của nhân nghĩa và “trừ bạo” là đối tượng, là

phương tiện của nhân nghĩa. Vì vậy, người nhân nghĩa phải lo trừ “bạo”, tức

lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa phải đấu tranh sao cho “hợp trời,

thuận người”, nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy “ít địch nhiều”, lấy “đại

nghĩa thắng hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”(2). Nhân nghĩa là cần

phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa

giống như là một phép lạ, làm cho “càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã

mờ mà lại trong”(3). Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vì vậy, mang

đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây,

có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng

nhân nghĩa của Khổng – Mạnh và có sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ

thể của Việt Nam. Như vậy, với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa gắn kết

biện chứng với tư tưởng thuận dân, an dân là một yêu cầu cao, một hoài bão

lớn, một mục đích chiến lược cần phải đạt tới. Trước Nguyễn Trãi hàng nghìn

năm, nhiều nhà tư tưởng trong lịch sử triết học Trung Quốc như Mạnh Tử…

đã từng nêu rõ vai trò quan trọng của dân, sức mạnh của dân, tai mắt và trí óc

sáng suốt của dân. Ở Việt Nam, tư tưởng an dân đã trở thành một đạo lý vào

thời Lý – Trần. Trong thời kỳ đó, những tư tưởng về thân dân, khoan dân, huệ

dân, v.v. đã xuất hiện và đã góp phần tích cực vào việc làm cho thời đại Lý –

Trần hưng thịnh. Đến Nguyễn Trãi, quan điểm về an dân đã được ông tiếp

thu, kế thừa, mở rộng và nâng cao trong suốt thời kỳ hoạt động của mình. An

dân có nghĩa là chấm dứt, là loại trừ những hành động tàn ác, bạo ngược đối

với dân. An dân còn là sự bảo đảm cho nhân dân có được một cuộc sống yên

bình. An dân là không được nhũng nhiễu “phiền hà” dân. Với tư tưởng an

dân, Nguyễn Trãi đã đưa ra một chân lý: phải giương cao ngọn cờ “nhân

2

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!