Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn ở Ninh Bình
PREMIUM
Số trang
132
Kích thước
3.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1049

Truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn ở Ninh Bình

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

ĐINH THỊ TUYẾT LAN

TRUYỀN THUYẾT NGUYỄN MINH KHÔNG VÀ

LỄ HỘI ĐỀN THÁNH NGUYỄN Ở NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS NGUYỄN THỊ HUẾ

Thái Nguyên - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

ĐINH THỊ TUYẾT LAN

TRUYỀN THUYẾT NGUYỄN MINH KHÔNG VÀ

LỄ HỘI ĐỀN THÁNH NGUYỄN Ở NINH BÌNH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS NGUYỄN THỊ HUẾ

Thái Nguyên – 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều

trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Đinh Thị Tuyết Lan

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban

Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn - Xã hội Trường Đại học Khoa học,

Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong

suốt quá trình học tập.

Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng

dẫn PGS.TS Nguyễn Thị Huế đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt

thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp

đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Đinh Thị Tuyết Lan

1

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Văn học dân gian nảy sinh và tồn tại như một bộ phận hợp thành của sinh

hoạt văn hóa của nhân dân. Đời sống sinh hoạt nhân dân là môi trường sống của

tác phẩm văn học dân gian. Văn học dân gian luôn được diễn xướng bằng nhiều

hình thức khác nhau ở những môi trường sinh hoạt dân gian khác nhau (nghi lễ,

lao động, sinh hoạt). Mỗi thể loại văn học dân gian lại gắn với một hình thức

diễn xướng khác nhau. Môi trường diễn xướng của truyền thuyết thường gắn

liền với lễ hội.

Nguyễn Minh Không là nhân vật lịch sử để lại dấu ấn quan trọng trong

lịch sử dân tộc và được nhân dân yêu quý, được người đời dệt nên những truyền

thuyết đẹp. Truyền thuyết về Nguyễn Minh Không là hệ thống truyện kể dân

gian được lưu truyền và gắn bó mật thiết với tín ngưỡng, lễ hội ở Ninh Bình đặc

biệt ở huyện Gia Viễn - quê hương ông.

Trước nay, việc sưu tầm, nghiên cứu về truyền thuyết Nguyễn Minh

Không ở Ninh Bình còn chưa được quan tâm đúng mức, chưa xứng với vị thế

của ông đối với quê hương và trong lịch sử dân tộc.

Vì vậy, việc nghiên cứu truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền

Thánh Nguyễn ở Ninh Bình là việc làm cần thiết, góp phần khẳng định vị trí của

Nguyễn Minh Không cùng lễ hội về ông trong tâm thức người dân Ninh Bình

nói riêng và cả nước nói chung. Đồng thời, đây sẽ là một đóng góp cụ thể cho

hướng giữ gìn và giảng dạy văn học dân gian địa phương theo hướng tích hợp.

Là một người con của quê hương Ninh Bình - nơi có nhiều lễ hội truyền

thống, nơi được coi là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, tôi mong muốn đóng góp

một phần công sức vào việc giữ gìn và phát triển di sản văn hoá dân gian trên

quê hương mình. Việc nghiên cứu và giới thiệu về truyền thuyết Nguyễn Minh

Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn ở Ninh Bình sẽ giúp tôi có thêm những hiểu

biết về văn hoá dân gian địa phương, có ý nghĩa thiết thực cho công tác giảng

dạy của tôi hiện nay.

Với những lý do mang tính lý luận và thực tế trên, chúng tôi đã lựa chọn

nghiên cứu đề tài: Truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh

Nguyễn ở Ninh Bình.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Vấn đề nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội

Theo quan điểm của Mác thì thần thoại gắn liền với thời kỳ ấu thơ của

nhân loại “trong những điều kiện xã hội vĩnh viễn không bao giờ trở lại nữa”,

nó là thứ “nghệ thuật vô ý thức”. Thần thoại đã có một vai trò tích cực trong đời

sống tinh thần của con người đồng thời phản ánh nhận thức của người nguyên

thuỷ về vũ trụ, về cuộc đấu tranh với thiên nhiên, sinh hoạt xã hội. Truyền

thuyết là một thể loại văn học dân gian, ra đời sau truyện thần thoại - khi con

người bứt ra khỏi đời sống dã man, bước vào chế độ văn minh đầu tiên. Thời kỳ

được đánh dấu bằng những chiến công lao động và những biến đổi xã hội sâu

sắc, nên còn được gọi là thời kỳ của “thanh kiếm sắt, cái cày và cái rìu bằng

sắt”. Trong văn học dân gian Việt Nam, truyền thuyết là một thể loại được xác

định khá muộn so với các thể loại khác. Nó được đánh dấu bằng sự kết thúc của

thời kì tiền sử, sự khởi đầu của thời kì sơ sử, với sự hình thành của nhà nước

Văn Lang đầu tiên, thuộc thời kì văn hoá kim khí mà đỉnh cao là văn hoá Đông

Sơn. Truyền thuyết thường sử dụng yếu tố tưởng tượng kì ảo, các nhân vật, sự

kiện đều liên quan đến lịch sử, là những truyện truyền miệng kể lại truyện tích

các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo

quan điểm của nhân dân. Đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu về truyền

thuyết, có nhiều hướng tiếp cận, nhiều định nghĩa khác nhau về truyền thuyết.

Khái niệm truyền thuyết được dùng với nội hàm như ngày nay đã trải qua

nhiều tranh luận, bàn cãi của các nhà nghiên cứu, học giả để định hình khái

niệm. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về truyền thuyết Việt Nam và sự đa

dạng, phong phú của thể loại này còn đặt ra nhiều vấn đế cần được giải quyết:

Một số tác giả phủ nhận sự tồn tại của truyền thuyết với tư cách là thể loại văn

học dân gian độc lập như Nguyễn Đổng Chi, Đinh Gia Khánh... Ngược lại, Đỗ

Bình Trị, Kiều Thu Hoạch và nhiều nhà nghiên cứu khác quan niệm truyền

thuyết là một thể loại tự sự dân gian.

Bộ giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của trường Đại học sư phạm Hà

Nội, (Đỗ Bình Trị chủ biên, năm 1961) bước đầu khẳng định truyền thuyết là

một thể loại “Truyền thuyết là những truyện cổ có dính líu đến lịch sử mà lại có

sự kì diệu - là lịch sử hoang đường, là những truyện tưởng tượng ít nhiều có gắn

với sự thực lịch sử”

Trong cuốn Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian

Việt Nam (NXB KHXH, 1970), Kiều Thu Hoạch, có tới ba bài viết khẳng định

truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian. Ông chỉ ra: Truyền thuyết là một

thể tài truyện kể truyền miệng nằm trong loại hình tự sự dân gian; nội dung cốt

truyện của nó là kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc

các phong vật theo quan niệm nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là

khoa trương phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng những yếu tố hư ảo, thần kỳ

như cổ tích và thần thoại…

Vào đầu những năm 80, trong cuốn Từ điển văn học (NXB Thế giới,

1984), mục từ “Truyền thuyết” do Chu Xuân Diên viết, cũng đã khẳng định

truyền thuyết là một trong những thể loại tự sự dân gian, có quan hệ gần gũi với

các thể loại tự sự dân gian khác như thần thoại và truyện cổ tích.

Các cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, tập II (Hoàng Tiến Tựu

NXB Giáo dục, 1990), Văn học dân gian Việt Nam (Lê Chí Quế chủ biên, NXB

ĐHQG, 1990), Văn học dân gian (Phạm Thu Yến chủ biên, NXB ĐHSP,

2002… đều dành một chương cho việc nghiên cứu truyền thuyết với tư cách là

một thể loại độc lập.

Cuốn Từ điển tiếng Việt, định nghĩa “Truyền thuyết là truyện dân gian

truyền miệng về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử, thường mang

nhiều yếu tố thần kì”. [50, tr.1053].

Còn các tác giả trong Từ điển thuật ngữ văn học, định nghĩa: “Truyền

thuyết là một thể loại dân gian mà chức năng chủ yếu là phản ánh và lí giải các

nhân vật và sự kiện lịch sử có ảnh hưởng quan trọng tới một thời kì, một bộ tộc,

một địa phương hay một quốc gia”. [26, tr.367].

Sách giáo khoa Ngữ văn 10 nâng cao, tập 1, lại định nghĩa: “Truyền

thuyết là thể loại tự sự bằng văn xuôi thường kể lại các sự kiện và các nhân vật

có liên quan đến lịch sử địa phương, dân tộc, thường dùng yếu tố tưởng tượng

để lý tưởng hóa các sự kiện và nhân vật được kể, thể hiện ý thức lịch sử của

nhân dân”. [53, tr.73].

Trên cơ sở tìm hiểu các định nghĩa về truyền thuyết nói trên, chúng tôi

nhận thấy các tác giả đều chung một quan điểm coi truyền thuyết tồn tại với tư

cách là một thể loại văn học dân gian độc lập. Các tác giả cũng công nhận về

đặc điểm của truyền thuyết là gắn với các sự kiện và nhân vật lịch sử.

Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hoá văn hoá cổ truyền tiêu biểu của nhiều

tộc người ở nước ta cũng như trên thế giới. Lễ hội là sản phẩm tinh thần của

người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử, phản chiếu khá

trung thực đời sống văn hoá của mỗi dân tộc. Lễ hội là nơi lưu giữ những tín

ngưỡng, tôn giáo, những sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian, nơi phản ánh tâm

thức người Việt Nam một cách trung thực nhất. Lễ hội ra đời, tồn tại gắn với quá

trình phát triển của nhiều tộc người nói chung và làng xã người Việt nói riêng, nó

phản ánh nhiều giá trị trong đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa của cộng đồng.

Một trong những giá trị tiêu biểu của lễ hội các làng xã người Việt là giá trị văn

hoá và liên kết cộng đồng qua tôn giáo, tín ngưỡng.

Nói về tầm quan trọng của lễ hội, tác giả Nguyễn Duy Quý trong bài phát

biểu tại Hội thảo Khoa học “Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện

đại” đã khẳng định: “Lễ hội truyền thống là một sinh hoạt tổng hợp bao gồm

các mặt tinh thần và vật chất, tôn giáo tín ngưỡng và văn hóa nghệ thuật, linh

thiêng và đời thường. Đó còn là một sinh hoạt có quy mô lớn về tầm vóc, có sức

cuốn hút một số lượng lớn những hiện tượng của đời sống xã hội”. Bên cạnh đó,

khi đề cập đến lý thuyết lễ hội, tác giả Trần Ngọc Thêm và các cộng sự lại cho

rằng: “Lễ hội là sự tổng hợp cái linh thiêng và cái trần thế, nhằm thể hiện lòng

biết ơn và bày tỏ nguyện vọng cùng sự cầu mong của mình đối với tổ tiên và các

thế lực siêu nhiên trong vũ trụ; phân bố theo không gian; có khuynh hướng thiên

về tinh thần; mang đặc tính mở (lôi cuốn mọi người tìm đến); mục đích nhằm

duy trì quan hệ bình đẳng giữa các thành viên trong làng xã”

Các tác giả trong Từ điển Bách khoa Việt Nam (Hội đồng Quốc gia chỉ

đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 2, NXB Hà Nội 2002, tr. 674)

đưa quan niệm: “Lễ hội là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng

tôn kinh của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng

của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện”.

Trong Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học Vietlex (Nxb Đà Nẵng

- Trung tâm Từ điển, 2008, tr.694 các tác giả Hoàng Phê, Vũ Xuân Lương, Hoàng

Thị Tuyền Linh, Phạm Thị Thủy, Đào Thị Minh Thu, Đặng Thanh Hòa) quan niệm

lễ hội là: “Cuộc vui chung có tổ chức, có các hoạt động lễ nghi mang tính văn hóa

truyền thống”.

Từ các khái niệm trên, chúng tôi nhận thấy các tác giả khi bàn về khái

niệm lễ hội đều có những quan niệm tương đồng về lễ và hội. Trong một lễ hội

có hai hệ thống đan quyện và giao thoa với nhau: phần lễ và phần hội.“Lễ là

phần tín ngưỡng, là phần thế giới tâm linh sâu lắng nhất của con người, là phần

đạo”. [66, tr.32].“Hội là phần tập hợp vui chơi, giải trí, là đời sống văn hóa

thường nhật, phần đời của mỗi con người, của cộng đồng”.[66, tr.32]. Các trò

diễn, trò chơi, cuộc thi tài trong phần hội làm cho nội dung lễ hội thêm phong

phú, làm sáng tỏ thêm chủ đề của lễ hội.

Khái niệm trên đã phản ánh bản chất và những nội dung của lễ hội truyền

thống Việt Nam. Trước hết, lễ hội là sinh hoạt văn hoá cộng đồng, bởi vì đây là

hoạt động văn hoá của tập thể, thuộc về tập thể, do tập thể tổ chức. Dù ở bất cứ

đâu, vào bất cứ thời gian nào lễ hội cũng phải do đông đảo quần chúng nhân dân

tiến hành. Chính họ là những người sáng tạo chân chính những giá trị bắt nguồn

từ cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu. Họ là chủ nhân, đồng thời là người

đánh giá, thẩm nhận và hưởng thụ những thành quả sáng tạo văn hoá ấy. Không

bao giờ lễ hội chỉ thuộc về một nhóm người nào đó trong xã hội. Không có đông

người tham dự, không thành hội, dân gian từng nói “đông như hội” chính là

vậy.

Lễ hội là một hoạt động tập thể do quần chúng nhân dân tiến hành, bất cứ

lễ hội nào cũng gắn với các địa bàn dân cư cụ thể, là hoạt động văn hoá của một

địa phương đó. Người ta tổ chức hoạt động lễ hội nhằm các mục đích khác nhau.

Trước hết, những hoạt động mang tính nghi lễ nhằm nhắc lại sự kiện, nhân vật

lịch sử hay huyền thoại đã diễn ra trong quá khứ. Đây chính là biểu hiện đạo lý

truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, thể hiện cách ứng xử văn hoá

với thiên nhiên, thần thánh, con người, thông qua các hoạt động trong lễ hội. Đó

là những ứng xử của tập thể, của cộng đồng cư dân với cả hai đối tượng: siêu

hình (thần thánh) và hữu hình (con người). Nó cũng phản ánh mối quan hệ, giao

thoa giữa siêu và thực, giữa con người với con người trong những hoàn cảnh và

hoạt động cụ thể.

2.2. Vấn đề nghiên cứu truyền thuyết Nguyễn Minh Không

Vào khoảng thế kỷ XIV, XV, truyền thuyết về Nguyễn Minh Không, đã

được Lý Tế Xuyên và Vũ Quỳnh, Kiều Phú ghi lại trong Việt điện u linh và

Lĩnh Nam trích quái. Trong cuốn Hành thiện xã chí của Hành Thiện tương tế

hội, năm 1947, ở Gia Định, tác giả Đặng Xuân Bảng đã lý giải, phân biệt sự

khác nhau giữa Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không. Trong Nam ông

mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, ở truyện Sự thần dị của Minh Không cũng nói

đến thánh Minh Không và sự nghiệp tu hành của ông.

Hiện nay, truyền thuyết về Nguyễn Minh Không, tín ngưỡng và các lễ hội

về ông được các nhà nghiên cứu ở nhiều địa phương khác nhau như Nam Định,

Thái Bình, Hà Nam, Bắc Ninh, Ninh Bình… quan tâm sưu tầm, nghiên cứu và

công bố. Thí dụ:

Phạm Đức Duật, trong bài “Sự Tích Không Lộ, Minh Không” đăng trên

Tạp chí Nghiên cứu Hán - Nôm (số 1 - 2/1984) đã nói rất rõ về cuộc đời và hành

trạng của đức Thánh Nguyễn.

Lê Xuân Quang với cuốn Truyện Đức Không Lộ - Minh Không (2000) đã

sưu tầm khá đầy đủ những truyền thuyết về Dương Không Lộ và Minh Không,

trong đó có bài diễn ca xâu chuỗi toàn bộ truyền thuyết về Đức Thánh Tổ Khổng

Minh Không. Tác giả cho rằng hai vị thiền sư là một và được đồng nhất với

danh xưng Khổng Minh Không.

Trương Đình Tưởng với Truyện cổ dân gian Ninh Bình (1995), đã sưu

tầm, biên soạn giới thiệu 6 truyện về ông Khổng Lồ Nguyễn Minh Không.

Cuốn Địa chí Ninh Bình, (UBND, Tỉnh ủy Ninh Bình, 2010), phần Văn

hóa, tôn giáo - Tín ngưỡng đã giới thiệu về phật giáo thời Lý và vai trò của

Quốc sư Nguyễn Minh Không.

Trương Đình Tưởng với cuốn Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình,

(2004), trong phần IV: “Truyện kể dân gian” đã giới thiệu một số thể loại văn

học dân gian chính ở Ninh Bình trong đó có thần thoại về ông Khổng Lồ

Nguyễn Minh Không và một bài ca về Thánh Nguyễn với phép thần thông

quảng đại.

Trương Đình Tưởng trong cuốn Bái Đính ngàn năm tâm linh và huyền

thoại, NXB Thế giới (2010) đã giới thiệu khá chi tiết về Nguyễn Minh Không,

Quốc sư triều Lý - ông tổ khai sinh “sinh dược” và “chùa Bái Đính cổ tự” trên

đỉnh non thần.

Qua việc tổng hợp tài liệu trên đây về nhân vật và truyền thuyết Nguyễn

Minh Không, cho thấy đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều vấn đề đã được

đề cập tới, chủ yếu các sử gia, các nhà khoa học ít nhiều đã chú tâm nghiên cứu

nhân vật lịch sử này dưới góc độ sử học và văn hóa. Và truyền thuyết về nhân

vật Nguyễn Minh Không đã được các nhà nghiên cứu văn học dân gian ghi lại

thành văn trong quá trình sưu tầm, điền dã. Song chưa có một công trình nào

nghiên cứu về Truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh

Nguyễn ở Ninh Bình dưới góc độ của khoa nghiên cứu văn học dân gian.

Kế thừa những thành tựu nghiên cứu về Nguyễn Minh Không trước đây,

chúng tôi tiếp tục nghiên cứu truyền thuyết Nguyễn Minh Không, đặc biệt là

những truyền thuyết về ông lưu truyền ở địa phương Ninh Bình và lễ hội đền

Thánh Nguyễn để thấy rõ hơn mối quan hệ giữa truyện kể dân gian với tín

ngưỡng và lễ hội.

3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn chủ yếu nghiên cứu trên cơ sở tập hợp các truyền thuyết liên

quan đến cuộc đời, sự nghiệp và thân thế của Nguyễn Minh Không lưu truyền ở

Ninh Bình.

Khảo sát, nghiên cứu đồng thời các truyền thuyết về Nguyễn Minh Không

lưu truyền ở Ninh Bình với các truyền thuyết về ông ở Thái Bình, Nam Định.

Tham khảo, đối chiếu với những truyền thuyết về Nguyễn Minh Không lưu

truyền ở một số địa phương khác mà không có ở Ninh Bình.

Khảo sát, giới thiệu lễ hội đền Thánh Nguyễn. Xem xét mối quan hệ giữa

truyền thuyết và lễ hội về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình.

3.2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu về truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh

Nguyễn để thấy được mối quan hệ giữa nhân vật lịch sử với truyền thuyết và tín

ngưỡng và có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hóa, tâm linh của cộng

đồng dân cư ở Ninh Bình.

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nhiệm vụ

Hệ thống các truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình và lễ

hội về Nguyễn Minh Không tại đền Thánh Nguyễn.

Xem xét mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội về Nguyễn Minh

Không ở Ninh Bình.

Chỉ ra sự ảnh hưởng sâu rộng của nhân vật Nguyễn Minh Không trong tín

ngưỡng dân gian và trong đời sống văn hóa tâm linh của người dân Ninh Bình

nói riêng và người dân Việt Nam nói chung.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài Truyền thuyết Nguyễn Minh Không và

lễ hội đền Thánh Nguyễn ở Ninh Bình, luận văn chủ yếu sử dụng các phương

pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp thống kê: Khảo sát, tập hợp và thống kê các tư liệu liên

quan đến truyền thuyết về Nguyễn Minh Không.

Phương pháp điền dã: Tiến hành điền dã trên địa bàn huyện Gia Viễn,

Yên Mô, Thị xã Tam Điệp, thành phố Ninh Bình tỉnh Ninh Bình tham quan các

di tích lịch sử có liên quan đến Nguyễn Minh Không. Gặp gỡ, trao đổi với

những cán bộ văn hoá, cán bộ quản lí di tích lịch sử, những nhà nghiên cứu,

những người dân địa phương đã nhiều năm tìm hiểu thu thập tư liệu về Nguyễn

Minh Không.

Phương pháp liên ngành: Do văn học dân gian nói chung, truyền thuyết

nói riêng có đặc trưng là tính nguyên hợp, tính chất sinh hoạt thực hành nên khi

tiến hành đề tài này chúng tôi đã vận dụng những tri thức thuộc nhiều lĩnh vực

khác nhau như lịch sử, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng… để lí giải một số vấn đề có

liên quan đến đề tài.

Phương pháp phân tích tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng nhằm

tiếp cận đối tượng nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết, đồng thời để có được sự

đánh giá một cách toàn vẹn, khái quát.

5. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi địa lý: Các địa phương của Ninh Bình có lưu truyền truyền

thuyết về Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn ở Ninh Bình.

Phạm vi tư liệu:

Những truyền thuyết về Nguyễn Minh Không và lễ hội Thánh Nguyễn

đã được sưu tập, giới thiệu trong các cuốn Truyện cổ dân gian Ninh Bình (1995)

Bái Đính ngàn năm tâm linh và huyền thoại (2009) do tác giả Trương Đình

Tưởng sưu tầm, biên soạn. Cuốn Dư địa chí Ninh Bình Địa chí Ninh Bình

(UBND, Tỉnh ủy Ninh Bình, 2010),

Một số truyền thuyết liên quan do tác giả luận văn thu thập, bổ sung được

trong quá trình điền dã tại Ninh Bình.

6. Đóng góp của luận văn

Giới thiệu một cách tương đối đầy đủ, hệ thống truyền thuyết về Nguyễn

Minh Không được lưu truyền ở Ninh Bình vốn lâu nay chưa được nhiều người

quan tâm. Nghiên cứu nội dung và nghệ thuật hệ thống truyền thuyết về Nguyễn

Minh Không và chỉ ra giá trị, ý nghĩa của hệ thống truyền thuyết này.

Giới thiệu lễ hội đền Thánh Nguyễn trong mối quan hệ, với hệ thống

truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình, từ đó cho thấy được sức

sống, tầm ảnh hưởng to lớn của ông trong truyền thuyết cũng như trong đời sống

hóa tâm linh của người dân Ninh Bình xưa và nay.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, cấu trúc của

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề chung, cơ sở nghiên cứu đề tài

Chương 2: Truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình

Chương 3: Mối quan hệ giữa truyền thuyết Nguyễn Minh Không với lễ hội

đền Thánh Nguyễn.

B. PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG, CƠ SỞ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. Điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa ở Ninh Bình

1.1. 1. Điều kiện tự nhiên

Điều kiện tự nhiên là một trong những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự

tồn tại và phát triển của con người. Cũng chính nhờ vào hoàn cảnh tự nhiên mà

các giá trị văn hóa, văn học mới nảy sinh, tồn tại và phát triển. Ninh Bình là một

tỉnh nằm ở cực nam đồng bằng Bắc Bộ, 19º50’ đến 20º27’ độ Vĩ Bắc, 105º32’

đến 106º27’ độ Kinh Đông. Dãy núi Tam Điệp chạy theo hướng Tây Bắc - Đông

Nam, làm ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hoá. Phía Đông

và Đông Bắc có sông Đáy bao quanh, giáp với hai tỉnh Hà Nam và Nam Định,

phía Bắc giáp tỉnh Hoà Bình, phía Nam là biển Đông. Ninh Bình có vị trí chiến

lược quan trọng, là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế và văn hoá giữa lưu vực sông

Hồng với lưu vực sông Mã, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ với vùng núi rừng Tây

Bắc của Tổ quốc. Ninh Bình là một điểm nút giao thông quan trọng từ miền Bắc

vào miền Trung và miền Nam. Có nhiều lợi thế phát triển kinh tế chính trị xã hội

vì có đủ cả giao thông đường bộ, đường sắt và đường thủy.

Ninh Bình ở vị trí điểm mút của cạnh đáy tam giác châu thổ sông Hồng

nên địa hình phân chia thành ba vùng tương đối rõ nét. Vùng đồng bằng, vùng

đồi núi bán sơn địa và vùng ven biển. Mỗi vùng có tiềm năng và thế mạnh riêng,

song ba vùng có thể bổ sung hỗ trợ nhau để phát triển nền kinh tế hàng hoá.

Cùng với tiềm năng về công, nông, lâm nghiệp Ninh Bình còn có thế mạnh phát

triển đa dạng các loại hình du lịch với nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch

sử văn hoá nổi tiếng như: Cố đô Hoa Lư, khu du lịch Tam Cốc - Bích Động,

Vườn Quốc gia Cúc Phương, khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long, động Vân

Trình, nước nóng Kênh Gà, Quần thể di sản thiên nhiên thế giới Tràng An …

Với vị trí địa lý đặc biệt, thiên nhiên đa dạng phong phú, Ninh Bình trở

thành nơi chuyển tải các ảnh hưởng văn hóa từ lưu vực sông Mã ra phía bắc, từ

lưu vực sông Hồng vào phía nam, từ vùng núi xuống vùng biển.

1.1.2. Đặc điểm lịch sử

Theo kết quả của các công trình khảo cổ học, sử sách ghi lại Ninh Bình là

vùng đất cổ, là địa bàn cư trú của của người Việt cổ. Trải qua hàng nghìn năm

xây dựng, phát triển và trưởng thành với nhiều thăng trầm, Ninh Bình được đổi

tên gọi nhiều lần, mỗi thời đại có cải cách và tên gọi khác nhau.

“Ninh Bình xưa cùng với Thanh Hóa thuộc bộ Quân Ninh, nước Văn

Lang. Thời thuộc Hán thuộc quận Giao Chỉ, thời thuộc Đông Ngô về sau

thuộc Giao Châu, thuộc Lương là châu Trường Yên.

Năm 968, vua Đinh Tiên Hoàng dẹp xong loạn 12 sứ quân thống nhất đất

nước, lên ngôi hoàng đế Đại Thắng Minh Hoàng Đế, đóng đô tại Hoa Lư và đổi

tên gọi Trường Châu thành Trường An…

Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Ninh Bình trực thuộc quân khu 3

gồm một thị xã, 6 huyện và hai thị trấn. Địa giới và các tổ chức đơn vị hành

chính được giữ mãi cho tới ngày miền nam hoàn toàn giải phóng thống nhất đất

nước.

Ngày 27 tháng 12 năm 1975, tại kỳ họp thứ hai quốc hội khóa V nước

cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam đã ra Nghị quyết Ninh Bình hợp nhất với

các tỉnh Nam Định và Hà Nam thành tỉnh Hà Nam Ninh rồi lại tái lập ngày 12

tháng 8 năm 1991”(Trích Bách khoa toàn thư mở)

1.1.3. Văn hóa truyền thống ở Ninh Bình

Ninh Bình là một tỉnh có diện tích nhỏ nhưng lại có bề dày lịch sử và văn

hoá, đặc biệt là văn hoá dân gian. Nơi đây vừa là gạch nối, vừa là ngã ba của ba

nền văn hoá lớn sông Hồng - sông Mã - Hoà Bình. Vì vậy, văn hoá truyền thống

Ninh Bình vừa có nét riêng bản địa, vừa mang sắc thái vùng miền do yếu tố hội

tụ, giao thoa của nhiều nền văn minh, văn hoá tích hợp.

Hoa Lư là kinh đô của nước Đại Việt thế kỷ X, mảnh đất gắn với sự

nghiệp của 6 vị vua thuộc ba triều đại Đinh - Lê - Lý với các dấu ấn lịch sử:

Thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà

Nội. Do ở vào vị trí chiến lược ra Bắc vào Nam, vùng đất này đã chứng kiến

nhiều sự kiện lịch sử oai hùng của dân tộc mà dấu tích lịch sử còn để lại trong

các đình, chùa, đền, miếu, từng ngọn núi, con sông. Đây còn là vùng đất chiến

lược bảo vệ kinh thành Thăng Long của triều đại Tây Sơn với phòng tuyến Tam

Điệp, là căn cứ để nhà Trần hai lần chiến thắng giặc Nguyên - Mông với hành

cung Vũ Lâm, đất dựng nghiệp của nhà Hậu Trần với đế đô ở Yên Mô...

Cùng với sự phát triển của lịch sử, nhân dân Ninh Bình đã xây dựng, gìn

giữ và phát triển một nền văn hóa đậm đà tính dân tộc và in đậm dấu ấn địa

phương. Đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của Ninh Bình vô cùng phong

phú, đa dạng biểu hiện ở nhiều phương diện trong cuộc sống của cả người Kinh

và người Mường. (Ninh Bình có ngót 92 vạn dân, trong đó có tới hơn 200 ngàn

người Mường).

Đối với người dân Ninh Bình, tín ngưỡng dân gian ngàn xưa đã ăn sâu bắt

rễ trong tư tưởng, tình cảm, nếp nghĩ, trong đời sống sinh hoạt… Người dân

Ninh Bình quan niệm:

“Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn

Nước có nguồn bể rộng sông sâu”

Thờ tổ tiên là sự thể hiện lòng thành kính, biết ơn, đồng thời cũng là sự

thể hiện niềm tin vào sự che chở, bảo hộ, trợ giúp của tổ tiên. Đó là hoạt động

dưới dạng hành lễ và được qui định bởi quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi

cộng đồng, dân tộc. Ngoài tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người dân Ninh Bình thờ

thần tự nhiên như thờ thần Núi, thần Biển, thần Sông, thần Cây… mà còn thờ

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!