Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay
(nhìn từ góc độ thể loại)
- Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
- Mã số: 62. 22. 34. 01
- Họ và tên nghiên cứu sinh: Lê Thị Hương Thủy
- Họ và tên người hướng dẫn: 1. PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp
2. PGS.TS. Tôn Phương Lan
- Cơ sở đào tạo: Học viện Khoa học Xã hội
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thể loại truyện ngắn có lịch sử lâu dài. Trên thế giới và Việt Nam đã có
nhiều nhà văn thành danh với truyện ngắn. Cùng với thời gian, đội ngũ những người
viết truyện ngắn ngày càng đông đảo, đặc biệt từ thời kỳ đổi mới với một số lượng
ấn phẩm phong phú trong đó nhiều cây bút đã tạo được dấu ấn phong cách.
1.2. Truyện ngắn là thể loại luôn vận động và biến đổi. Ở Việt Nam, cùng
với quá trình hiện đại hóa văn học, thể loại truyện ngắn đã có những chuyển biến rõ
rệt, đặc biệt từ thời kỳ đổi mới truyện ngắn đã chứng tỏ là thể loại năng động, có
khả năng nắm bắt sự vận động của cuộc sống một cách nhanh nhạy, kịp thời nhưng
vẫn khái quát được những vấn đề sâu sắc đặt ra trong đời sống. So với trước đây,
truyện ngắn đã có những chuyển đổi rõ rệt, cả về nội dung và hình thức. Những
năm đầu thế kỷ XXI, truyện ngắn đã có những bước phát triển mới đóng góp vào
thành tựu của nền văn học đổi mới. Xuất phát từ thực tiễn đời sống thể loại, chúng
tôi xét thấy cần có một công trình nghiên cứu hệ thống, cập nhật về những đặc điểm
và quy luật vận động của thể loại trong đời sống văn học từ sau 1986. Mốc 1986 mà
chúng tôi lựa chọn có ý hướng để giới hạn và tập trung vào giai đoạn sôi nổi và có
nhiều thành tựu của văn học đương đại, của đời sống thể loại những năm sau chiến
tranh.
1.3. Trong khi thực tiễn đời sống thể loại truyện ngắn đang ngày một trở nên
sinh động thì vấn đề lý thuyết thể loại truyện ngắn lại không ngừng được tra vấn, bổ
sung, thậm chí là đối thoại tranh biện với những lý thuyết truyện ngắn tưởng đã ổn
định trước đây. Những phát biểu về truyện ngắn vẫn không ngừng ra đời. Truyện
ngắn, từ góc độ thể loại và ranh giới thể loại là vấn đề đáng quan tâm của văn học
đương đại. Truyện ngắn đang mang trong mình nó những dấu hiệu của sự chuyển
đổi, có nhiều ngả rẽ. Khuynh hướng thứ nhất là vẫn viết theo lối truyền thống, tuân
thủ những đặc tính vốn có của thể loại, khuynh hướng thứ hai là truyện ngắn có
những cách tân nhưng vẫn tôn trọng những dấu hiệu quy chuẩn của thể loại và
khuynh hướng thứ ba là những truyện ngắn hướng tới việc phá bỏ ranh giới thể
3
loại. Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay nhìn từ góc độ thể loại là một hướng đi
được lựa chọn nhằm góp phần lý giải đời sống thể loại trong bước chuyển của đời
sống văn học những thập kỷ cuối của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI.
Tìm hiểu truyện ngắn đương đại trên cơ sở tham chiếu lý thuyết thể loại sẽ thấy
được những thay đổi trong tư duy nghệ thuật, tư duy thể loại trong bối cảnh mới.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là tìm hiểu sự vận động của thể loại truyện ngắn Việt
Nam từ 1986 đến nay, lý giải quy luật vận động, chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến
sự thay đổi tư duy nghệ thuật. Trên cơ sở tìm hiểu sự đổi mới tư duy thể loại, luận
án đi sâu nhận diện và lý giải một số phương thức trần thuật, bút pháp nghệ thuật
được sử dụng trong quá trình tạo lập văn bản truyện ngắn.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là truyện ngắn từ 1986 đến nay trên các
phương diện quan niệm và tư duy thể loại, nghệ thuật xây dựng nhân vật và kết cấu
truyện ngắn, ngôn ngữ và điểm nhìn trần thuật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung khảo sát những sáng tác truyện ngắn đặc sắc của các tác giả tiêu
biểu như Nguyễn Minh Châu, Đỗ Chu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị Hảo, Lê Minh Khuê, Hồ Anh Thái, Võ Thị
Xuân Hà, Trần Thùy Mai,… Mặt khác, luận án cũng chú ý đến sáng tác của các cây
bút trẻ xuất hiện gần đây như Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Vĩnh
Nguyên, Phong Điệp,...
Trong những năm gần đây việc các cây bút hải ngoại công bố tác phẩm ở
trong nước không còn là trường hợp hiếm thấy (Lê Minh Hà, Nguyễn Văn Thọ,
Amond Nguyen Thi Tu,…). Đây cũng là đối tượng để chúng tôi tham chiếu khi đi
vào những vấn đề của thể loại trong đời sống văn học đương đại. Ngoài ra, trong
quá trình thực hiện đề tài, để thấy được sự vận động và phát triển của truyện ngắn,
chúng tôi mở rộng phạm vi nghiên cứu tới truyện ngắn trước 1986 và một số tác
4
phẩm ở các thể loại khác (như tiểu thuyết) từ 1986 đến nay để có cái nhìn đối sánh
và sâu hơn về đối tượng.
4. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý thuyết
Một lý thuyết dù có hiệu quả đến mấy thì cũng không thể là chìa khóa vạn
năng khi đi vào giải mã thế giới nghệ thuật của nhà văn cũng như tìm hiểu một thể
loại hay một tác phẩm, tác giả cụ thể. Đối với trường hợp nghiên cứu một số vấn đề
lý thuyết và thực tiễn sáng tác đời sống thể loại truyện ngắn Việt Nam đương đại,
như hướng đi luận án lựa chọn, thiết nghĩ sự phối hợp nhiều lý thuyết khi nghiên
cứu khảo sát là điều cần thiết. Trong luận án này, lý thuyết tự sự học, thi pháp học
vẫn là lựa chọn chính yếu. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng vận dụng một số lý thuyết
khác như phân tâm học, lý thuyết huyền thoại, lý thuyết hậu hiện đại,… nhằm có cái
nhìn đa chiều khi tiếp cận và giải mã quá trình sáng tạo, sự đổi mới tư duy nghệ
thuật của các cây bút truyện ngắn.
Luận án cũng xác định và làm rõ một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề
tài như sự tương tác thể loại, sự pha trộn thể loại, tư duy tiểu thuyết trong truyện
ngắn,…
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp cấu trúc hệ thống: Đặt truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay
trong sự vận động của văn học thời kỳ đổi mới, xem xét đối tượng như một hiện
tượng có tính hệ thống, chúng tôi hướng tới việc xác định vị trí, ý nghĩa của một thể
loại trong diễn trình văn học, đặc biệt là đời sống thể loại.
- Phương pháp loại hình: Nhằm tìm ra những đặc điểm tương đồng loại hình
về thi pháp thể loại, qua đó thấy được quy luật phát triển của thể loại truyện ngắn từ
thực tế đời sống văn học.
- Phương pháp so sánh: Để có sự đối sánh và cái nhìn sâu hơn về đối tượng,
chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát truyện ngắn giai đoạn này trong sự liên hệ để tìm ra
những nét tương đồng và khác biệt giữa truyện ngắn thời kỳ đổi mới và truyện ngắn
giai đoạn trước đó, giữa truyện ngắn và các thể loại văn học khác ở góc độ đồng đại
và lịch đại.
5
- Tiếp cận theo hướng thi pháp học, tự sự học.
5. Đóng góp của luận án
Góp phần làm sáng rõ một số vấn đề thuộc về lý luận thể loại, về những đặc
điểm khu biệt và sự tương tác thể loại qua việc khảo sát truyện ngắn sau 1986.
Luận án góp phần vào việc nhìn nhận, đánh giá một phương diện của văn
học sử qua việc tìm hiểu thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học đương đại. Từ
góc nhìn lịch đại, luận án sẽ nhận diện những kế thừa và sự tiếp biến, đổi mới tư
duy nghệ thuật truyện ngắn Việt Nam đương đại.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Truyện ngắn – quan niệm và sự đổi mới tư duy thể loại
Chương 3: Các dạng thức xây dựng nhân vật và tổ chức kết cấu văn bản
truyện ngắn
Chương 4: Ngôn ngữ và điểm nhìn trần thuật
6
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nƣớc
Khái lược về những nghiên cứu lý thuyết truyện ngắn
Nguồn tư liệu nước ngoài về lý thuyết truyện ngắn vốn rất phong phú, tuy
nhiên vì nhiều lý do, chúng tôi chưa thể bao quát được hết. Bởi vậy, khảo sát của
luận án chủ yếu dựa trên nguồn tài liệu đã được giới thiệu trong nước.
Thuật ngữ truyện ngắn (short story: tiếng Anh, nouvelle: tiếng Pháp, đoản
thiên tiểu thuyết: tiếng Trung) ra đời muộn nhưng tiền thân của truyện ngắn vốn
xuất hiện từ rất sớm. Qua tiến trình lịch sử, đến nay truyện ngắn đã hiện diện với
tính chất một thể loại có vị trí quan trọng trong đời sống văn học. Truyện ngắn là
thể loại phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều nước trên thế giới. Đã có nhiều
ý kiến bàn về truyện ngắn, về khái niệm và đặc trưng của thể loại này.
Mặc dù có những quan điểm không tách bạch trên phương diện lý thuyết thể
loại giữa truyện ngắn và tiểu thuyết nhưng dù muốn hay không truyện ngắn với tư
cách là một thể loại vẫn tồn tại như một thực tế được thừa nhận. Đáng chú ý là số
lượng truyện ngắn trên thế giới và ở Việt Nam vô cùng phong phú nhưng lại không
dễ đưa ra một định nghĩa thống nhất, cho phép khái quát hết các đặc điểm của các
tác phẩm. Trong lịch sử văn học, khái niệm truyện ngắn và những vấn đề lý thuyết
thể loại luôn là vấn đề gây tranh cãi. Không những với người nghiên cứu mà với
người sáng tác, các ý kiến, định nghĩa truyện ngắn không chỉ thay đổi theo thời gian
mà còn có nhiều điểm khác biệt tùy vào quan điểm mỹ học của từng tác giả.
Từ những năm đầu thế kỷ XIX, lý thuyết truyện ngắn đã được nghiên cứu ở
phương Tây [60]. Đã có nhiều nhà văn coi truyện ngắn là một thể loại văn học riêng
biệt. Edgar Allan Poe là một trong số đó. Quan tâm tới mỹ học truyện ngắn, Edgar
Allan Poe chú trọng tới “lý thuyết về bước ngoặt”, “thời gian văn bản” (bao gồm cả
thời gian đọc của độc giả). Những phạm trù này được chính nhà văn sử dụng trong
khi viết truyện kinh dị (với việc đặt ra yêu cầu hiệu quả của sự bất ngờ, cái kỳ dị,
7
khác thường tác động đến người đọc). Frank Oconnor (1903 – 1966) - nhà văn có
hơn 20 năm sống ở Mỹ (từ 1945) lại coi tính chất ngắn của thể loại thuộc về phong
cách nhà văn. Ông đặc biệt hứng thú với thể truyện rất ngắn vốn đòi hỏi sự cô đúc,
ngắn gọn và súc tích vì “những truyện này rất gần với thơ trữ tình” [122, tr.103].
Ở Pháp, thế kỷ XIX được coi là thời kỳ hoàng kim của truyện ngắn với các
tên tuổi Maupassant, Daude, Mérimée,… Nhiều tác phẩm truyện ngắn ra đời giai
đoạn này tạo được sự quan tâm của người nghiên cứu, “trở thành cơ sở để họ xây
dựng khung lý thuyết thể loại truyện ngắn” [157, tr.17]. Mục từ “truyện ngắn” trong
Từ điển văn học Pháp ngữ định nghĩa: “Với nhiều người, truyện ngắn so với tiểu
thuyết giống như phim ngắn với phim dài. Truyện ngắn là bài tập của các nhà văn
duy mĩ” [157, tr.27]. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Phạm Thị Thật trong công
trình Truyện ngắn Pháp cuối thế kỷ XX một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn sáng tác
[157] thì vấn đề định nghĩa thể loại truyện ngắn trong thực tiễn văn học Pháp cũng
không đồng nhất từ việc xác định độ dài của truyện ngắn đến những vấn đề thuộc về
thi pháp thể loại. Thực tế này là thách thức không chỉ với các “từ điển gia” mà còn
với các nhà nghiên cứu, ngay cả những người viết truyện ngắn. Không có một định
nghĩa nào thõa mãn được tất cả các tiêu chí, bởi vậy ý kiến của Annie Saumont -
nhà văn Pháp được đánh giá là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất
hiện nay - về truyện ngắn có thể cho là dễ được chấp nhận: “truyện ngắn là một văn
bản ngắn trong đó có một câu chuyện, còn kể câu chuyện đó thế nào là việc của nhà
văn” [157, tr.41], nghĩa là câu chuyện có thể được thuật lại dưới mọi hình thức.
Tên tuổi của nhiều nhà văn Nga cũng được vinh danh ở thể loại truyện ngắn
như A. Tônxtôi, Pautôpxki, Shêkhôp. Đều có những tác phẩm truyện ngắn xuất sắc
nhưng mỗi nhà văn lại có những quan niệm và cách thức khác nhau khi viết truyện
ngắn. Từ kinh nghiệm nghệ thuật, A. Tônxtôi chú trọng đến khả năng của người
viết: “Truyện ngắn là một hình thức nghệ thuật khó khăn bậc nhất (...) Trong truyện
ngắn, tất cả như trong bàn tay anh. Anh phải thông minh, như anh đã phải hiểu biết.
Bởi lẽ hình thức nhỏ không có nghĩa là nội dung không lớn lao” [122, tr.116].
Pautôpxki nhận định: “Truyện ngắn là một truyện viết ngắn gọn trong đó, cái không
bình thường hiện ra như một cái gì bình thường, và cái gì bình thường hiện ra như
8
một cái gì không bình thường” [122, tr.121]. Còn Shêkhôp khi viết truyện ngắn lại
chú ý “tô đậm cái mở đầu và kết luận” [122, tr.75].
Thể loại thường gắn liền với tính quy ước với những yếu tố đặc định, nhưng
không phải là những quy phạm cứng nhắc, bất biến. Không ít người viết truyện
ngắn luôn có ý thức “khắc phục mọi sơ đồ”, “mọi đường mòn đã hình thành trong
người viết và người đọc”. Đề cao khuynh hướng kể chuyện tự do trong truyện ngắn
hiện đại, U. Xaroyan (nhà văn Mỹ) cho rằng: “Chừng nào trên quả đất này còn nhà
văn, và họ còn viết, truyện ngắn còn tìm được cách nhập vào mọi hình thức thể tài,
chọn cho mình mọi dung lượng, mọi phong cách, và nó cũng có thể vượt ra, phá
tung mọi hình thức, mọi khuôn khổ, phong cách đó” [122, tr.97]. Nhà văn Nhật Bản
Kôbô Abê (sinh 1924) cũng có đồng quan điểm với U. Xaroyan về sự sáng tạo
trong truyện ngắn: “Tính kịp thời là một đặc điểm đáng ngạc nhiên của truyện
ngắn. Đó là một sự tự do, nó cho phép truyện ngắn không bị ràng buộc bởi những
hình thức nghệ thuật đã thành quy phạm. Mặt khác, truyện ngắn cũng có khả năng
“chín” rất nhanh. Hình thức truyện ngắn vừa luôn luôn vỡ ra, thay đổi, vừa luôn
luôn được hàn gắn “cấu trúc” lại” [122, tr.106]. Có thể thấy quan niệm và lối viết
của các nhà văn theo thời gian đã trở nên uyển chuyển hơn, đặc điểm của truyện
ngắn hiện đại do vậy ngày càng khác xa với truyện ngắn truyền thống.
Do khả năng biến động và tính năng sản của thể loại nên đã có rất nhiều quan
niệm truyện ngắn được xác lập, theo đó cũng có nhiều cách hiểu về truyện ngắn.
Thứ nhất, coi truyện ngắn tồn tại như một thể loại độc lập, có những đặc trưng
riêng về thi pháp thể loại. Xu hướng thứ hai là đặt truyện ngắn trong mối liên hệ
với các thể loại tương cận (như tiểu thuyết: ý kiến của D. Grojnowski). Bên cạnh
đó, lại cũng có nhà văn tuyên ngôn rằng khi sáng tác họ từ chối mọi quy định lý
thuyết và vì thế truyện ngắn ít bị ràng buộc bởi các quy phạm. Có thể thấy việc đưa
ra được một định nghĩa nhất quán về truyện ngắn là một thách thức với không chỉ
các nhà văn mà còn với cả các nhà nghiên cứu.
Cùng với việc đưa ra quan niệm về truyện ngắn, các nhà văn cũng chia sẻ
những kinh nghiệm viết truyện ngắn, những công việc “bếp núc” của người sáng
tác. Xung quanh vấn đề này đã có nhiều ý kiến (Môôm, Hêmingway, O’Connor,
9
Pautôpxki,…). Từ thực tiễn sáng tác – Môôm (Wiliam Somerset Maugham) – nhà
văn Anh hiện đại, tác giả của nhiều tập truyện ngắn chia sẻ: “Trong nghệ thuật tôi
thiên về sự chuẩn mực, về trật tự nghiêm ngặt và trong truyện ngắn, tôi lại càng
thích mọi chuyện được sắp xếp chặt chẽ” [122, tr.87]. Những kinh nghiệm này thực
sự cần thiết không chỉ với người viết truyện ngắn mà cả với tác giả luận án. Đây là
những gợi mở để người viết phân tích những vấn đề kỹ thuật viết truyện ngắn của
nhà văn.
Những nghiên cứu liên quan đến từng trƣờng hợp, tác giả, tác phẩm cụ
thể:
Đã có một số bài viết của các học giả nước ngoài lựa chọn một trường hợp,
một tác giả truyện ngắn Việt Nam đương đại làm đối tượng khảo sát (như trường
hợp Nguyễn Huy Thiệp), chẳng hạn: Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp – Evelipe
Pieller, Thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp, Lịch sử Việt Nam qua truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp - T.N.Filimonova [107]. Một số nhà văn, nhà nghiên cứu Việt
Nam ở hải ngoại (Nguyễn Hưng Quốc, Thụy Khuê) cũng đã có các bài viết về
truyện ngắn của tác giả trong nước: Phạm Thị Hoài trên sinh lộ mới của văn học
(Thụy Khuê), Không gian sông nước trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Thụy
Khuê),…
Trong một số Hội thảo quốc tế được tổ chức ở Việt Nam có những học giả
bước đầu quan tâm đến một số tác phẩm và tác giả truyện ngắn Việt Nam đương đại
từ những góc nhìn mới, chẳng hạn tại Hội thảo quốc tế Văn học Việt Nam trong bối
cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế do Viện Văn học và Viện Harvard –
Yenching phối hợp tổ chức năm 2006 có các tham luận: Khi người ta trẻ: những
câu chuyện nữ sinh của Phan Thị Vàng Anh – Rebekah Collins (Nghiên cứu sinh
đại học California – Mỹ), Giao thông với tư cách biểu tượng trong văn học đổi mới
– Jonathan McIntyre – Đại học Cornell, New York, Mỹ). Điều đáng chú ý là với
những học giả nước ngoài họ thường lựa chọn và giải quyết những vấn đề nghiên
cứu gắn với thực tiễn đời sống và đây là đặc điểm khác biệt với tư duy nghiên cứu
của người bản địa.
10
1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nƣớc
1.2.1. Về khái niệm và định nghĩa truyện ngắn
Đã có nhiều công trình nghiên cứu hoặc tập hợp những bài nghiên cứu về
truyện ngắn với tư cách là một thể loại tự sự trong đó có đề cập đến khái niệm thể
loại. Đáng chú ý là các công trình Sổ tay truyện ngắn [122], Nghệ thuật viết truyện
ngắn và ký [115], Bình luận truyện ngắn [152], Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết
và thực tiễn thể loại [153]; Truyện ngắn Việt Nam, lịch sử, thi pháp, chân dung
[125], Những vấn đề thi pháp của truyện [66], Tìm hiểu truyện ngắn [37], Truyện
ngắn: lí luận, tác gia và tác phẩm [10].
Mặc dù chưa có một định nghĩa nhất quán nhưng thuật ngữ “truyện ngắn” đã
được nhiều tác giả công trình lý luận, từ điển và người viết truyện ngắn định danh.
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa truyện ngắn là “tác phẩm tự sự cỡ nhỏ”,
“khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và
toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện
một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người”
[126, tr.304].
Trong Từ điển văn học (tập 2, Nxb Khoa học xã hội, 1984) truyện ngắn được
quan niệm:
“Truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung lượng nhỏ hơn, tập trung mô tả
một mảnh của cuộc sống: một biến cố hay một vài biến cố xảy ra trong một giai
đoạn nào đó của đời sống nhân vật, biểu hiện một mặt nào đó của tính cách nhân
vật, thể hiện một khía cạnh nào đó của vấn đề xã hội.” [127, tr.457].
Các nhà nghiên cứu, phê bình, các nhà văn từ trước tới nay cũng đã đưa ra
những cách hiểu của mình về truyện ngắn. Từ góc độ người sáng tác nhà văn
Nguyễn Quang Sáng cho rằng: “truyện ngắn phải có “chuyện”, tức có thể kể lại cho
người khác nghe được. Mà muốn kể, câu chuyện phải chặt chẽ, hấp dẫn” [122,
tr.36]. Theo nhà văn Nguyễn Kiên thì “truyện ngắn là một trường hợp” trong khi
Nguyễn Công Hoan lại quan niệm: “Truyện ngắn không phải là truyện mà là một
vấn đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ với cách
đặt câu dùng tiếng có cân nhắc”, “muốn truyện là truyện ngắn, chỉ nên lấy một ý
11
chính làm chủ đề cho truyện. Những chi tiết trong truyện chỉ nên xoay quanh chủ đề
ấy. Không có chi tiết thừa, rườm rà, miên man” [122, tr.14].
Nhiều nhà văn cũng đã chia sẻ về những kinh nghiệm, kỹ thuật viết truyện
ngắn. Công trình biên soạn Sổ tay truyện ngắn (Vương Trí Nhàn) hệ thống lại
những kinh nghiệm viết truyện của một số nhà văn như Nguyễn Công Hoan, Tô
Hoài, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Đỗ Chu, Ma Văn Kháng. Từ kinh
nghiệm viết truyện ngắn của bản thân, nhà văn Tô Hoài đúc kết: “truyện ngắn là
một thể văn tạo cho người viết nhiều nết quý lắm. Chỉ với truyện ngắn, người ta
mới biết tận dụng từng chữ, lo săn sóc từng chữ. Nhà văn mình thường yếu không
tạo được phong cách riêng. Truyện ngắn là nơi là có thể thử tìm phong cách cho
mình. Truyện ngắn đòi hỏi sự hoàn thiện” [122, tr.8]. Với quan niệm viết truyện
ngắn là một công việc rất thiêng liêng, bởi đó là một cuộc gặp gỡ giữa người viết và
người đọc, một cuộc gặp gỡ phút chốc, nhưng để lại một ấn tượng sâu đậm, làm
người ta khó quên, nhà văn Đỗ Chu chia sẻ: “Với tôi, thường cốt truyện không
thành vấn đề lắm. Và cả nhân vật nữa, giữa nhân vật với tôi không có sự phân biệt
đáng kể. Tôi không bám vào hiện tượng quan sát được, mà thường ướm mình vào
nhân vật, không giả sử mình đóng vai người khác sẽ ra sao, mà thường giả sử trong
trường hợp đó, mình sẽ xử sự ra sao. Tôi muốn huy động vai trò của bản thân một
cách cao nhất. Và mỗi truyện ngắn trở thành một mảnh của sự phân thân” [122,
tr.68].
Ngoài ra còn có những công trình khảo cứu truyện ngắn không chỉ ở Việt
Nam mà còn ở các nước phương Tây: Truyện ngắn dưới ánh sáng so sánh (Đào
Ngọc Chương) [22], Truyện ngắn Pháp cuối thế kỷ XX một số vấn đề lý thuyết và
thực tiễn sáng tác (Phạm Thị Thật) [157]. Lựa chọn đối tượng nghiên cứu là truyện
ngắn của một số nước trên thế giới, trong các công trình này, các nhà nghiên cứu
cũng đã đặt ra được một số vấn đề thuộc về lý thuyết và thực tiễn truyện ngắn ở một
số nước trên thế giới như Pháp, truyện ngắn Mỹ, truyện ngắn Châu Mỹ.
Quan sát những nhận định, ý kiến, bàn luận về truyện ngắn từ xưa đến nay có
thể thấy rõ hai khuynh hướng chính sau đây: thứ nhất, chỉ ra những đặc trưng của
truyện ngắn, theo đó: “truyện ngắn chỉ dừng lại ở một khoảnh khắc nào đó tiêu biểu
12
trong một đời người” “trong sự hạn chế của không gian thời gian, tính cách trong
truyện ngắn thường khi là những tính cách đã hình thành ổn định và người ta chỉ bắt
gặp nó, hơn là việc chứng kiến nó phát triển”. Bên cạnh những quan niệm coi
truyện ngắn là một thể loại độc lập với những tiêu chí rõ ràng thì cũng có những
cách thức so sánh truyện ngắn với tiểu thuyết để tìm ra đặc trưng của truyện ngắn.
Cũng lại có những quan niệm coi truyện ngắn là “một loại tiểu thuyết rất ngắn”,
truyện ngắn nằm trong phạm trù của truyện kể, truyện ngắn gần với tiểu thuyết
nghĩa là vẫn lấy tiểu thuyết làm điểm quy chiếu.
Dù định nghĩa truyện ngắn khá phong phú và quan niệm về thể loại này còn
có nhiều điểm chưa đồng nhất nhưng truyện ngắn với tư cách là một thể loại thuộc
loại hình tự sự vẫn có những đặc điểm đặc thù. Tính chất ngắn của thể loại là dấu
hiệu bề mặt. Dung lượng truyện ngắn là ngắn nhưng thể loại này vẫn có một sức
dung chứa lớn. Truyện ngắn với tư cách là một khái niệm thể loại không chỉ vì
truyện của nó ngắn mà vì “cách nắm bắt cuộc sống của thể loại”. Truyện ngắn có
thể là một tình thế, một khoảnh khắc nhưng cũng có thể phản ánh nhiều phương
diện khác nhau của đời sống. Do sự khuôn định về dung lượng nên buộc người viết
truyện ngắn phải chú ý đến những phương diện được cho là lợi thế của truyện ngắn.
Chi tiết, tình huống, kết cấu và ngôn ngữ là những phương diện được chú ý khai
thác của người viết truyện ngắn. Truyện ngắn thường hạn chế về nhân vật: “Trong
tiểu thuyết hay truyện dài sự kiện hành động nhằm để mô tả tâm lý nhân vật, nó có
thể rẽ ngang rẽ tắt. Trong khi đó với một dung lượng nhỏ hơn rất nhiều, truyện ngắn
chỉ chớp lấy cái thần thái của nhân vật khiến nó phải bộc lộ tính cách bằng cách
khoan sâu vào lớp đời sống bao quanh nhân vật” [115, tr.105]. Với tính chất ngắn,
truyện ngắn đòi hỏi một độ căng, độ dồn nén cần thiết để có thể chuyển tải hiệu quả
thông điệp của người viết, bởi vậy “truyện ngắn thường mang lại những âm vang
dài và rộng hơn khuôn khổ chật hẹp về mặt hình thức của nó”, chính vì thế, “đôi khi
chỉ một truyện ngắn vài ngàn chữ, lại cho thấy một sự bao trùm về không gian, thời
gian, lịch sử… rộng lớn của một cuốn tiểu thuyết trường thiên” [115, tr.105]. Vậy
thì, dung lượng (ở đây là sự giới hạn về số trang) tỷ lệ nghịch với những giá trị biểu
13
đạt, với sức dung chứa, với những tầng nghĩa mà nhà văn muốn biểu đạt. Điều quan
trọng là ở lối viết và khả năng sáng tạo các thủ pháp nghệ thuật của nhà văn.
Từ trước đến nay những phát biểu liên quan đến lý thuyết truyện ngắn rất
nhiều nhưng không dễ tìm được một định nghĩa thống nhất. Lý giải thực tế này, nhà
văn Ma Văn Kháng cho rằng: “do năng lực ôm chứa của truyện ngắn ngày càng tỏ
ra vô tận nên thể tài này trong những năm gần đây đã mang một tầm vóc lớn lao về
tư tưởng và nghệ thật rất đáng nể trọng. Và đó là nguyên nhân khiến co những định
nghĩa về nó trong các sách giáo khoa kinh điển đã trở nên bất cập” [135, tr.204 -
205]. Một phương diện cần phải nói tới là dù tồn tại như một thể loại độc lập nhưng
những vấn đề cơ bản của truyện ngắn cũng có thể nằm trong phạm trù tiểu thuyết.
Bakhtin khi đề cập đến những vấn đề thi pháp tiểu thuyết thì cũng bao hàm trong đó
cả những vấn đề thuộc về truyện ngắn. Trong công trình Những vấn đề thi pháp của
truyện (Nguyễn Thái Hòa) khi phân chia các thể loại truyện thì thể loại tiểu thuyết
đã bao gồm cả truyện ngắn, truyện dài, truyện vừa. Nhà văn Nguyên Ngọc cho
rằng: “truyện ngắn là một thể loại rất động. Nó không tự nhốt mình trong một
khuôn phép nào (và có lẽ ở đây một lần nữa ta lại thấy sự giao thoa giữa truyện
ngắn và tiểu thuyết, không có ranh giới tuyệt đối giữa hai thứ đó)” [115, tr.27]. Bởi
vậy, tìm hiểu truyện ngắn từ góc độ thể loại, một mặt, chúng tôi hướng tới việc đi
tìm những đặc trưng của thể loại truyện ngắn trên cơ sở soi chiếu thực tiễn và thi
pháp sáng tác truyện ngắn Việt Nam đương đại; mặt khác, sẽ không tránh khỏi việc
xem xét truyện ngắn trong những mối liên quan với tiểu thuyết từ thực tiễn sáng tác
thể loại truyện ngắn trong một bối cảnh cụ thể là văn học Việt Nam từ thời kỳ đổi
mới.
Đã có nhiều ý kiến bàn về đặc trưng thể loại cũng như những chia sẻ về nghệ
thuật và kinh nghiệm viết truyện ngắn. Bên cạnh đó, từ thực tiễn khảo sát truyện
ngắn, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã có những đúc kết quan trọng ở phương diện lý
thuyết. Những quy ước nghệ thuật đó là cơ sở để chúng tôi tham chiếu khi nghiên
cứu sự vận động của thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học hôm nay.
14
1.2.2. Các công trình, bài viết đề cập đến truyện ngắn từ sau 1986
1.2.2.1 Những vấn đề chung
Sau 1986 cùng với sự xuất hiện đông đảo đội ngũ những người viết truyện
ngắn với sự thay đổi trong lối viết đã có nhiều công trình lựa chọn truyện ngắn, đặc
biệt là truyện ngắn đổi mới làm đối tượng nghiên cứu. Khảo sát truyện ngắn thời kỳ
đổi mới, các nhà nghiên cứu, phê bình đã tiếp cận với nhiều phương diện của thể
loại. Nhiều cuộc tranh luận xung quanh các vấn đề của truyện ngắn, các tác phẩm
cụ thể đã diễn ra tạo nên một đời sống văn học sôi động. Các công trình nghiên cứu
về sự vận động của truyện ngắn thời kỳ đổi mới đã giúp người đọc thấy được những
bước đi của thể loại trong tiến trình văn học dân tộc.
Ngoài các công trình chuyên biệt về thể loại truyện ngắn như luận án tiến sĩ
của Lê Thị Hường hoàn thành năm 1995 Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn
Việt Nam giai đoạn 1975 -1995 [74]; các công trình, chuyên luận như Bình luận
truyện ngắn (Bùi Việt Thắng) [152], Truyện ngắn Việt Nam lịch sử, thi pháp, chân
dung (Nhiều tác giả) [125]; Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể
loại (Bùi Việt Thắng) [153] đã có nhiều bài viết quan tâm nghiên cứu nhiều vấn đề
của truyện ngắn. Các công trình, bài viết ở nhiều góc độ đã đề cập đến thành tựu
của truyện ngắn sau 1975, những đóng góp và thách thức của thể loại trong đời sống
văn học đương đại. Tìm hiểu sự vận động của truyện ngắn trong dòng chảy của văn
học những thập niên cuối thế kỷ XX, nhiều người có đồng quan điểm với nhà
nghiên cứu Bùi Việt Thắng trong việc ghi nhận vị trí quan trọng của truyện ngắn
đối với quá trình đổi mới văn học đương đại: “Không quá khi nói rằng độ khoảng
mười năm qua (10 năm đầu thời kỳ đổi mới – tác giả luận án) là thời kỳ hưng thịnh
của truyện ngắn… truyện ngắn đang thăng hoa” [152, tr.177].
Cùng với các công trình mang tính tổng quan về văn xuôi trong đó có đề cập
đến thể loại truyện ngắn Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995 những đổi mới cơ bản
(Nguyễn Thị Bình) [13] là các bài viết khảo sát quá trình vận động của văn xuôi nói
chung và thể loại truyện ngắn nói riêng ở từng giai đoạn, từng thời kỳ và trong từng
năm: Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975 (Bích Thu) [161], Từ một góc
nhìn về sự vận động của truyện ngắn chiến tranh (Tôn Phương Lan) [81], Trong
15
tấm gương của thể loại nhỏ (Bùi Việt Thắng) [152] Truyện ngắn và cuộc sống hôm
nay (Phạm Xuân Nguyên) [101], Truyện ngắn nhìn từ trong nguồn mạch (Lại Văn
Hùng) [69], Nhìn lại văn xuôi 1992 (Mai Hương) [73], Sự vận động của các thể loại
văn xuôi trong văn học thời kỳ đổi mới (Lý Hoài Thu) [164], Truyện ngắn hiện nay,
sức mạnh và hạn chế (Nguyên Ngọc) [99],…Đa phần các bài viết có chung quan
điểm trong việc ghi nhận vị trí quan trọng của truyện ngắn đối với quá trình đổi mới
văn học đương đại. Khảo sát sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học
thời kỳ đổi mới Lý Hoài Thu khẳng định đây là thời kỳ truyện ngắn lên ngôi. Cắt
nghĩa về điều này, tác giả cho rằng: “Trong nhịp độ của đời sống công nghiệp hiện
đại, dưới sức ép của các phương tiện nghe nhìn, truyện ngắn đã phát huy được ưu
thế của mình một cách hiệu quả” [164]. Bích Thu trong bài viết Những thành tựu
của truyện ngắn sau 1975 [161] đã có một cái nhìn và cách đánh giá khá toàn diện
về truyện ngắn sau 1975 từ việc khảo sát truyện ngắn trên các phương diện cốt
truyện, kết cấu, quan niệm nghệ thuật về con người, ngôn ngữ trần thuật.
Một trong những “mảnh đất ươm mầm” các cây bút truyện ngắn là các cuộc
thi truyện ngắn liên tục được tổ chức trên các báo và tạp chí. Bên cạnh việc tham dự
của nhà văn là sự quan tâm của các nhà phê bình. Ngay sau khi các tác phẩm được
đăng tải, nhiều nhà phê bình đã có ý kiến phản hồi tạo nên những hiệu ứng tích cực
cho đời sống văn học (các bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Lý Hoài Thu, Bùi Việt
Thắng, Xuân Thiều, Bùi Hiển: Tản mạn bên lề cuộc thi (Phạm Xuân Nguyên, tạp
chí Văn nghệ quân đội số 10/1993), Những truyện ngắn hay (Lý Hoài Thu, tạp chí
Văn nghệ quân đội số 12/1993), Một cuộc thi về người lính, vì người lính và vì một
nền văn học đổi mới, lành mạnh (Báo cáo tổng kết cuộc thi truyện ngắn 1992 –
1994, tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1994),... Những bài viết này cho thấy gương
mặt mới của thể loại trong đời sống văn học đương đại cùng những chuyển biến tích
cực so với truyện ngắn giai đoạn trước.
Những sáng tác mới của các tác giả trẻ cũng luôn dành được sự chú ý và
phản hồi của người đọc. Khi tìm hiểu sáng tác của lớp nhà văn trẻ này, nhiều bài
viết một mặt khẳng định những đóng góp và sáng tạo mới, mặt khác còn đề cập đến
những thách thức trong sáng tạo nghệ thuật ở họ (Văn trẻ - phía trước và hy vọng,