Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Truyện ngắn Việt Nam 1945-1975 như một trường diễn ngôn
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
Tr-êng ®¹i häc s- ph¹m hµ néi
-------------------
HOµNG THÞ THU GIANG
TRUYÖN NG¾N VIÖT NAM 1945 - 1975
NH¦ MéT TR¦êng diÔn ng«n
Chuyªn ngµnh: lý luËn v¨n häc
M· sè : 62.22.01.20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phùng Ngọc Kiếm
hµ néi – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận án xin cam đoan:
- Luận án này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi.
- Những số liệu và tài liệu được trích dẫn trong đây là trung thực.
- Kết quả nghiên cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được
công bố trước đó.
Tôi chịu trách nhiệm trước lời cam đoan của mình.
Hà Nội, tháng 2 năm 2014
Tác giả luận án
Hoàng Thị Thu Giang
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài...................................................................................................1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................3
4. Nhiệm vụ và ý nghĩa của luận án .........................................................................3
5. Bố cục của luận án................................................................................................4
Chương 1. TỔNG QUAN ......................................................................................5
1.1. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975...............................5
1.2. Tình hình nghiên cứu diễn ngôn......................................................................13
1.2.1. Trên thế giới .................................................................................................13
1.2.2. Ở Việt Nam...................................................................................................16
Chương 2. TRUYỆN NGẮN NHƯ MỘT TRƯỜNG DIỄN NGÔN ...............23
2.1. Diễn ngôn và các thẩm quyền diễn ngôn.........................................................23
2.2. Khái niệm trường diễn ngôn ...........................................................................28
2.3. Trường diễn ngôn truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 ..................32
2.3.1. Những yếu tố chi phối sự hình thành, vận động của trường diễn ngôn
truyện ngắn giai đoạn 1945 – 1975 ........................................................................32
2.3.2. Các bộ phận tâm và biên trong trường diễn ngôn truyện ngắn 1945 – 1975 ...... 42
Chương 3. DIỄN NGÔN TRUNG TÂM TRONG TRUYỆN NGẮN
VIỆT NAM 1945 – 1975.......................................................................................54
3.1. Thẩm quyền sáng tạo.......................................................................................54
3.1.1. Nguyên tắc truyền bá, nêu gương.................................................................54
3.1.2. Khung truyện định sẵn .................................................................................60
3.2. Thẩm quyền của cái được biểu đạt..................................................................65
3.2.1. Thế giới được lưỡng cực hoá .......................................................................65
3.2.2. Bức tranh của những chức phận...................................................................69
3.2.3. Không gian cộng đồng và thời gian lịch sử..................................................85
3.3. Thẩm quyền tiếp nhận .....................................................................................88
3.3.1. Lớp ngôn từ, lời văn được đại chúng hóa, quân sự - chính trị hóa ..............88
3.3.2. Giọng điệu thể hiện lập trường kháng chiến, cách mạng.............................94
Chương 4. DIỄN NGÔN NGOẠI BIÊN TRONG TRUYỆN NGẮN
VIỆT NAM 1945 – 1975.....................................................................................100
4.1. Thẩm quyền sáng tạo.....................................................................................100
4.1.1. Nguyên tắc phản tư với sáng tác tuyên truyền ...........................................100
.......................................................................107
4.2. Thẩm quyền của cái được biểu đạt................................................................113
4.2.1. Thế giới được đa diện hóa..........................................................................113
4.2.2. Bức tranh cuộc đời muôn mặt ....................................................................116
4.2.3. Không gian cá thể và thời gian thế tục.......................................................127
4.3. Thẩm quyền tiếp nhận ...................................................................................131
4.3.1. Ngôn từ, lời văn ẩn ý, đa nghĩa ..................................................................131
4.3.2. Giọng điệu thể hiện ý thức phê phán và tinh thần nhân bản ......................134
KẾT LUẬN .........................................................................................................146
CÁC BÀI BÁO ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN....................................................................................151
THƯ MỤC THAM KHẢO................................................................................152
............................................................................................................163
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong những năm 1945 – 1975, cả dân tộc Việt Nam huy động mọi sức
mạnh vật chất và tinh thần có thể vào sự nghiệp chống xâm lược, bảo vệ và dựng
xây đất nước. Trên mặt trận văn hoá nghệ thuật, truyện ngắn là thể loại xung kích,
có nhiều đóng góp, phát triển đều, “ở chặng nào cũng có những truyện hay”
[68;134]. Chính vì vậy, từ lâu, truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 đã trở thành đối
tượng khảo sát của nhiều công trình phê bình, nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, có
thể thấy, cho đến nay, đối tượng này chủ yếu được nghiên cứu trong phạm vi lời
nói nghệ thuật và phần nhiều dựa vào lí thuyết phản ánh. Đó là cách nghiên cứu
theo hướng thi pháp lí thuyết, tách thể loại ra khỏi ngữ cảnh văn học cực kì phức
tạp làm nên đời sống đích thực của chúng, hướng tới khái quát những đặc điểm
chính yếu, tiêu biểu. Các thành tựu nghiên cứu, phê bình mấy chục năm qua về
truyện ngắn nói riêng cũng như về văn học 1945 – 1975 nói chung thường tập
trung khẳng định tính thống nhất, ít chú ý phân tích, lý giải các phạm vi, yếu tố
khác biệt tồn tại, vận động trong chỉnh thể văn học giai đoạn này. Tiếp cận đối
tượng theo hướng như vậy tưởng như là đã nghiên cứu triệt để, khó có thể phát
hiện thêm điều gì mới về truyện ngắn Việt Nam 30 năm kháng chiến chống xâm
lược. Chúng tôi cho rằng nếu vận dụng lí thuyết diễn ngôn, xem xét đối tượng
trong sự tồn tại và vận động chỉnh thể, đa chiều, ta có thể nhận thức đầy đủ, đánh
giá toàn diện hơn về truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975.
1.2. Hướng sự quan tâm đến phương thức ngôn ngữ tạo tác nên hiện thực,
ngôn ngữ luận là khuynh hướng lý thuyết ngày càng phát triển mạnh mẽ và có
nhiều ảnh hưởng trong khoa học xã hội hiện đại. Trong ngôn ngữ luận, lí thuyết
diễn ngôn là khu vực rất nổi trội.
Khác với các hướng nghiên cứu văn học theo phản ánh luận, bản thể luận,
nghiên cứu văn học từ góc độ lí thuyết diễn ngôn xác định đối tượng tìm hiểu
không chỉ là “thế giới nghệ thuật” mà còn là cách thức, mục đích của việc kiến tạo
nên thế giới nghệ thuật đó. Tiếp cận văn học từ góc nhìn diễn ngôn không chỉ
hướng tới giải đoán ý nghĩa của văn bản được nghiên cứu, mà còn xác định, tái
2
tạo, mô tả những nguyên nhân, điều kiện, quy tắc để tạo ra văn bản và ý nghĩa ấy.
Nghiên cứu thể loại văn học như một hình thức diễn ngôn và trong thực tiễn diễn
ngôn của nó, khảo sát lời nghệ thuật trên cùng một dãy với các thể loại lời nói
ngoài nghệ thuật, nghiên cứu đối tượng trong môi trường đa ngữ theo tinh thần lí
thuyết của M. Bakhtin, có thể đem lại cách nhìn và nhận thức mới về những vấn
đề tưởng như đã xong xuôi của đời sống văn học, đặc biệt là về thời đại văn học
và đặc trưng của thể loại trong tương tác diễn ngôn của thời đại.
1.3. Nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 như một trường diễn
ngôn là hướng tìm hiểu đặc trưng của thể loại truyện ngắn dưới góc nhìn mới, có
thể mang lại sự nhìn nhận và đánh giá toàn diện, khách quan hơn về truyện ngắn
dân tộc giai đoạn này. Cùng với điều đó, luận án góp phần làm sáng rõ hơn bản
chất của diễn ngôn và diễn ngôn văn học – những vấn đề ngày càng được quan
tâm thảo luận, vận dụng trong nghiên cứu văn học tại Việt Nam. Với những ý
nghĩa ấy, nghiên cứu đề tài có thể góp thêm một tài liệu tham khảo thiết thực với
những người quan tâm đến lý luận, phê bình văn học, những người dạy – học văn
học trong nhà trường các cấp.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là trường diễn ngôn truyện ngắn 1945 – 1975
với các bộ phận tâm và biên của nó, từ đó xác lập quan niệm và nhận thức về diễn
ngôn, trường diễn ngôn văn học, trường diễn ngôn thể loại gắn với lịch sử xã hội.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Với đối tượng nghiên cứu được xác định như trên, phạm vi nghiên cứu của
luận án bao gồm: cơ sở lí thuyết diễn ngôn đối với nghiên cứu văn học nói chung,
truyện ngắn nói riêng; trường diễn ngôn truyện ngắn 1945 – 1975 với các bộ phận
cấu thành của nó; các thẩm quyền và chiến lược thực thi thẩm quyền của diễn ngôn
trung tâm và diễn ngôn ngoại biên trong truyện ngắn 1945 – 1975.
Trong hoàn cảnh lịch sử đặc thù của dân tộc, văn học Việt Nam giai đoạn
1945 – 1975 gồm nhiều bộ phận. Làm nên diện mạo chính yếu của văn học dân tộc
giai đoạn này là bộ phận văn học cách mạng (văn học kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ ở cả hai miền Nam, Bắc; văn học thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
3
miền Bắc những năm 1954 - 1964). Ngoài ra, còn có các bộ phận văn học trong vùng
tạm chiếm những năm 1946 – 1954, văn học đô thị miền Nam 1954 - 1975 và văn
học của người Việt ở nước ngoài. Trong khuôn khổ luận án, ứng với đối tượng và
phạm vi nghiên cứu được xác định như trên, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát những
truyện ngắn thuộc bộ phận văn học cách mạng giai đoạn 1945 – 1975 bởi chúng cùng
nằm trong một trường diễn ngôn (có chung hoàn cảnh lịch sử, xã hội, cùng chịu sự
chi phối của một cơ chế quyền lực, có chung môi trường sáng tác, chung đối tượng
tiếp nhận, chung điều kiện lưu hành…). Những tác phẩm thuộc bộ phận này có thể
khác nhau về quan điểm nghệ thuật, phương pháp sáng tác nhưng chúng có giao tiếp,
có quan hệ với nhau. Những truyện ngắn thuộc các bộ phận khác tuy thuộc giai đoạn
1945 – 1975 nhưng không cùng nằm trong một trường diễn ngôn được đặt ra ngoài
phạm vi khảo sát của luận án này.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, ngoài việc kết hợp sử dụng các thao tác
chung của nghiên cứu văn học như phân tích, tổng hợp, thống kê, phân loại .v.v,
chúng tôi chú ý sử dụng các phương pháp: phương pháp loại hình, phương pháp
nghiên cứu liên ngành và phương pháp so sánh.
- Phương pháp loại hình: Nhận diện, phân loại các hình thái cấu thành
trường diễn ngôn truyện ngắn giai đoạn 30 năm chiến tranh trên cơ sở chứng minh
các nhóm hiện tượng giống nhau về những phương diện nào đó.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Đặt đối tượng vào môi trường văn hóa
mà nó sinh thành, vận động, xác định bối cảnh lịch sử, xã hội, những cơ chế quyền
lực cụ thể chi phối chiến lược kiến tạo các loại diễn ngôn trong trường diễn ngôn
truyện ngắn 1945 – 1975.
- Phương pháp so sánh: So sánh các loại hình diễn ngôn thuộc trường diễn
ngôn truyện ngắn 1945 – 1975 với nhau và với các diễn ngôn văn học khác cùng thời
đại để có cái nhìn sáng rõ về đặc thù lịch sử của truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975.
4. Nhiệm vụ và ý nghĩa của luận án
4.1. Từ thực tế nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 như một
trường diễn ngôn, luận án xác lập và làm rõ khái niệm trường diễn ngôn văn học,
cụ thể ở đây là một trường diễn ngôn thể loại.
4
4.2. Chỉ ra tính chất phức tạp trong cấu trúc chỉnh thể của hiện thực truyện
ngắn giai đoạn 1945 – 1975, những tác động của trường tri thức và quyền lực tới
sự hình thành các thành phần tạo nên cấu trúc đó cũng như tác động trở lại của các
thành phần đó tới đời sống văn hóa, xã hội, chính trị giai đoạn này.
4.3. Phân tích tổng thể các thẩm quyền, chiến lược thực thi các thẩm quyền
của diễn ngôn khu vực trung tâm và khu vực ngoại biên trong trường diễn ngôn
truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975, từ đó có cái nhìn toàn diện về truyện ngắn
Việt Nam 1945 – 1975.
5. Bố cục của luận án
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình nghiên cứu liên
quan đến đề tài luận án, Thư mục tham khảo và Phụ lục, phần Nội dung chính của
luận án được triển khai thành 4 chương:
Chương 1. Tổng quan
Chương 2. Truyện ngắn như một trường diễn ngôn
Chương 3. Diễn ngôn trung tâm trong truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975
Chương 4. Diễn ngôn ngoại biên trong truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975
5
Chương 1. TỔNG QUAN
Trong chương tổng quan, chúng tôi điểm lại những công trình nghiên cứu về
truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 và vấn đề diễn ngôn trong nghiên cứu văn học.
1.1. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975
Trong các thể loại văn học thuộc giai đoạn 1945 – 1975, truyện ngắn, cùng
với thơ là đối tượng nhận được sự quan tâm, bình giá nhiều hơn cả, kể cả trong
thời gian ba mươi năm chiến tranh cũng như ở giai đoạn sau 1975.
Thời kì khoảng 10 năm đầu sau cách mạng tháng Tám, dù số lượng tác
phẩm truyện ngắn chưa nhiều, cũng đã có những bài viết đánh giá, bàn luận về
truyện ngắn cách mạng đương thời. Càng về sau càng có nhiều hơn những bài viết
đánh giá, phê bình về các truyện ngắn giai đoạn 30 năm chiến tranh. Có thể nói
khó đếm xuể những bài phê bình về các truyện ngắn/tập truyện ngắn/tác giả truyện
ngắn cụ thể. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu chuyên sâu về toàn bộ nền
truyện ngắn giai đoạn này chỉ xuất hiện từ sau năm 1975. Dưới đây chúng tôi sẽ
điểm qua những công trình nghiên cứu tiêu biểu về đối tượng này.
Trước hết, có thể kể tới công trình Con người trong truyện ngắn Việt Nam
1945 – 1975 (bộ phận văn học cách mạng) của Phùng Ngọc Kiếm. Chọn quan niệm
nghệ thuật về con người trong truyện ngắn 1945 – 1975 làm đối tượng nghiên cứu,
trên cơ sở xác định quan niệm về con người trong ý thức nghệ thuật của văn học
giai đoạn này nói chung, tác giả đã tập trung làm rõ những cảm nhận về con người
trong truyện ngắn, từ đó đưa ra kết luận: con người sử thi – con người mang vẻ đẹp
lí tưởng của dân tộc và thời đại, sống hết mình với sự nghiệp chung của cộng đồng,
xả thân vì nghĩa lớn … là kiểu nhân vật chủ yếu của truyện ngắn 1945 – 1975. Với
loại nhân vật này, truyện ngắn 1945 – 1975 đã “góp phần khắc họa, khẳng định, cổ
vũ sự hồi sinh, trưởng thành của dân tộc dưới ánh sáng của cách mạng và kháng
chiến” [57;179]. Bên cạnh việc khẳng định vị trí trung tâm của kiểu hình tượng con
người sử thi, với những dẫn chứng cụ thể và những phân tích thấu đáo, cuốn sách đã
chỉ ra và khẳng định những thức nhận của các tác giả truyện ngắn 1945-1975 về con
người cá nhân – con người tự khẳng định mình, có nhu cầu được hưởng hạnh phúc,
đau đớn với những mất mát cá nhân… Tác giả khẳng định: “Các kiểu loại con
6
người sử thi cùng với những thức nhận về con người cá nhân trong nhiều tác phẩm
đã chứng tỏ khát vọng, khả năng nắm bắt, những nỗ lực sáng tạo của nhà văn để
miêu tả cuộc sống ngày càng phong phú và sâu sắc, để tạo ra những màu sắc thẩm
mĩ ngày càng đa dạng, hấp dẫn” [57;179]. Người viết công trình này nhấn mạnh
những thành công chủ yếu trong nghệ thuật truyện ngắn 1945 – 1975: nghệ thuật
miêu tả nhân vật tập thể, xây dựng chân dung cá nhân điển hình của kiểu con người
sử thi; nghệ thuật tạo tình huống xung đột, dựng bối cảnh (không gian – thời gian)
và sắc vẻ đặc trưng trong giọng điệu, ngôn từ của truyện ngắn giai đoạn này. Những
thành công ấy chứng tỏ: “thành tựu nghệ thuật của truyện ngắn 1945 – 1975 là
phong phú và không thể phủ nhận” [57; 301].
Cũng lấy đối tượng nghiên cứu là truyện ngắn 30 năm sau Cách mạng Tháng
Tám, Nguyễn Khắc Sính trong công trình Phong cách thời đại – nhìn từ một thể
loại văn học đã phân tích các biểu hiện của phong cách thời đại trong thể loại ngắn
gọn, năng động này. Theo tác giả, truyện ngắn là thể loại có thành tựu nổi bật của
văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975, đã thể hiện độc đáo nổi bật phong cách
thời đại, phân biệt với văn học sau 1975. Nhưng vấn đề này lại hầu như chưa được
quan tâm xem xét thật sự. Từ nhận định đó, tác giả đã tập trung xem xét truyện
ngắn 1945 – 1975 và kết luận: phong cách thời đại trong truyện ngắn giai đoạn này
là sự kết hợp của bốn yếu tố hiện thực, sử thi, lãng mạn, trữ tình. Bốn yếu tố đặc
trưng đó “làm thành diện mạo của văn học một thời với màu sắc riêng của nó mà
giai đoạn trước đó chưa có và ở giai đoạn sau không lặp lại nữa” [133;362]. Không
dừng lại ở việc nêu, trình bày những yếu tố làm nên phong cách thời đại của truyện
ngắn 1945 – 1975, Nguyễn Khắc Sính còn chỉ ra sự vận động của nó: ở thời kì 1945
– 1954, yếu tố hiện thực chiếm ưu thế, sang thời kì 1955 – 1964, yếu tố trữ tình
chiếm vị trí chủ đạo, đến thời kì 1965 – 1975, yếu tố sử thi trở thành nét trội. Theo
tác giả: chính các tiền đề lịch sử, chính trị, đạo đức … đã tác động, chi phối tới sự
vận động của phong cách thời đại trong truyện ngắn 1945 – 1975 như đã mô tả.
Trong Truyện ngắn Việt Nam – công trình có sự hợp tác nghiên cứu của
nhiều học giả do GS.VS. Phan Cự Đệ, PGS.TS. Lý Hoài Thu đồng chủ trì đề tài,
mảng truyện ngắn 1945 – 1975 cũng được đặc biệt quan tâm. Trong công trình
mang tính chất tổng kết về mặt lí luận và văn học sử, bao quát những thành tựu
7
của cả nền truyện ngắn Việt Nam xuyên suốt từ thời kì trung đại đến thời kì hiện
đại, diện mạo truyện ngắn 1945 – 1975 được phác họa với những gương mặt
truyện ngắn ấn tượng: Bùi Hiển, Kim Lân, Hồ Phương, Nguyễn Khải, Anh Đức,
Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Minh Châu, Vũ Hạnh, Sơn Nam,
Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Đỗ Chu, Lê Minh Khuê. Các tác giả Truyện
ngắn Việt Nam đã giới thiệu, phân tích, bình giá cái hay, cái đẹp và cả những hạn
chế trong những tác phẩm tiêu biểu, từ đó xác lập những đặc điểm riêng của từng
cây bút truyện ngắn. Có thể thấy, mặc dù chưa giới thiệu được tất cả những tác
giả, tác phẩm truyện ngắn giai đoạn này, chưa chi tiết được trong phác họa diện
mạo cả nền truyện ngắn với những nét đậm, nhạt, nổi, chìm, những tiếng nói đối
thoại, đa thanh trong nền truyện ngắn ấy, nhưng qua việc giới thiệu các cây bút
truyện ngắn như trên, độc giả cũng có thêm nhiều nhận thức bổ ích về sự phát
triển, sức sống, vẻ hấp dẫn của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975.
Với nhận định: “trong đội quân thể loại tạo nên lịch sử văn học 1945 – 1975,
truyện ngắn được xem là thể loại để lại nhiều tác phẩm sáng giá” [121;19], Hỏa Thị
Thúy, trong công trình Truyện ngắn Việt Nam – diện mạo lịch sử của thể loại đã chỉ
ra sự vận động của thể loại truyện ngắn 1945 – 1975: ở thời kì 1945 – 1954, truyện
ngắn Cách mạng có đặc điểm “già” kí, “non” truyện; thời kì 1955 – 1964, truyện
ngắn giàu cảm hứng trữ tình cách mạng, tới thời kì 1965 – 1975, tất cả hạt nhân cấu
trúc thể loại từ loại hình nội dung, hình tượng trung tâm đến nguyên tắc trần thuật,
ngôn ngữ, giọng điệu tác phẩm đều mang tính sử thi.
Và đúng như Hỏa Thị Thúy đã nêu trong Truyện ngắn Việt Nam – diện mạo
lịch sử của thể loại, “một đối tượng nghệ thuật chân chính sẽ tham gia vào những
cuộc đối thoại không bao giờ kết thúc” [121;207], sau những công trình dài hơi
lấy truyện ngắn 1945 - 1975 làm đối tượng nghiên cứu, tiếp tục có luận án Truyện
ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 (nhìn từ góc độ thi pháp thể loại) của
Nguyễn Thị Bích Thu. Ở công trình này, tác giả đã xác định và làm rõ hai loại
hình cơ bản của truyện ngắn 1945 – 1975: truyện ngắn trữ tình và truyện ngắn
hiện thực. Về loại hình nhân vật, tác giả xác định có hai kiểu người cơ bản trong
truyện ngắn 1945 – 1975: con người chính trị - con người công dân - con người
sử thi (kiểu 1) và con người cá nhân (kiểu 2). Về con người cá nhân, tác giả xác
8
định đây là kiểu nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong một số truyện ngắn ra đời vào
những năm sau 1954. “Kiểu người này đã phải chịu sự phê phán của dư luận vì đã
đi chệch ra khỏi quỹ đạo của một nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa.Tuy
nhiên, từ chỗ đứng của ngày hôm nay, chúng tôi nhận thấy sự xuất hiện của con
người cá nhân là hợp quy luật, là sự tiếp nối của con người cá nhân trước Cách
mạng. Sau 1975, không còn chịu sự chi phối của chiến tranh, con người cá nhân sẽ
trở lại và giữ vị trí quan trọng trên văn đàn” [119;181]. Đồng thời với những ghi
nhận về đóng góp của truyện ngắn 1945 – 1975, Nguyễn Thị Bích Thu cũng chỉ ra
những hạn chế của truyện ngắn 1945 – 1975: kiểu nhân vật loại hình xuất hiện
nhiều trong truyện ngắn 1945 – 1975 và chưa có những điển hình sắc nét, chứng
tỏ các tác giả chưa nắm được bản chất của hiện thực, mới chỉ chú ý đến minh họa
đơn thuần những chủ trương chính sách. Nhân vật loại hình kết hợp với tính cách
đã xuất hiện nhưng chưa nhiều. Về giọng điệu, theo tác giả, tính chất đơn giọng là
đặc điểm riêng của truyện ngắn thời kì này. “Do chú trọng đến chức năng tuyên
truyền, cổ vũ công cuộc giữ nước mà truyện thường đi sâu khai thác mặt thuận
chiều, khiến cho hiện thực được phản ánh rơi vào sơ lược, giản đơn. Cũng do yêu
cầu của lịch sử mà nhân vật chỉ được khai thác ở phương diện xã hội, đời sống nội
tâm chưa được quan tâm nhiều…”[119;182].
Bên cạnh những công trình nghiên cứu chuyên sâu nêu trên, còn có rất
nhiều bài báo phân tích, nhận xét, đánh giá về truyện ngắn 30 năm sau Cách
mạng. Trong số những bài viết được đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành
nghiên cứu văn học, chúng tôi chú ý tới hai bài báo của các tác giả Vương Trí
Nhàn và Lại Nguyên Ân về truyện ngắn 1945 – 1975.
Trên Tạp chí văn học số 6 năm 1978, nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn công
bố bài viết Về sự lựa chọn chủ đề và phát triển tính cách trong truyện ngắn sau
cách mạng (sau này, tại trang mạng http://vuongtrinhan.
wordpress.com/2010/01/09, nhan đề bài viết được đổi thành Về sự lựa chọn chủ đề
và phát triển tính cách trong truyện ngắn 1945 – 1975). Ở phần mở đầu bài nghiên
cứu, tác giả khẳng định: “So với văn chương tiền chiến, văn xuôi cách mạng Việt
Nam có khá nhiều thay đổi, trước tiên là ở những nguyên tắc lựa chọn chủ đề, phát
triển tính cách nhân vật – những khâu quan trọng bậc nhất trong việc hình thành tác
9
phẩm”. Qua những dẫn chứng cụ thể, nhà nghiên cứu chỉ ra những chủ đề được lặp
đi lặp lại ở từng chặng và cách triển khai thể hiện chủ đề đó. Ở những năm đầu cách
mạng (khoảng 1945-1948), truyện ngắn tập trung thể hiện chủ đề “dứt bỏ” - được
hiểu là “vượt lên trên chết chóc, nhưng có khi đơn giản chỉ là vượt lên trên cuộc
sống phù hoa và cả những thói quen cũ, cách đánh giá cũ”. Theo Vương Trí Nhàn,
“chỉ trong hoàn cảnh có những thay đổi đột biến như cách mạng, chủ đề dứt bỏ mới
được thực hiện”. Từ nửa sau cuộc kháng chiến chống Pháp, “thức tỉnh”, “giác ngộ”
trở thành chủ đề thường gặp trong các truyện ngắn cách mạng. Để thể hiện chủ đề
đó, có hai cách dựng truyện phổ biến: cách đi vào một vài phút giây đột biến; và
cách nói tới những thay đổi dần dà chậm rãi, cho đến khi con người hoàn toàn
“khác trước”. Mở rộng phạm vi khảo sát, tác giả kết luận: chủ đề “nhận thức” và
chủ đề “ân nghĩa ân tình” là những chủ đề “có ý nghĩa bao trùm”, “làm nên hai
mạch truyện chính của nền văn học sau Cách mạng”. “Hai mạch truyện này lại phát
triển chồng chéo lên nhau ở nhiều mô-típ cốt truyện chung mà chúng ta thấy lặp đi
lặp lại nhiều lần đến mức không thể coi là ngẫu nhiên”. Về chủ đề “nhận thức”, theo
tác giả: “Những ngày đầu Cách mạng, để dứt bỏ với quá khứ, người ta phải nhận
thức; trong những năm tháng chiến đấu, để giữ vững ý chí, người ta phải nhận thức;
mà những khi đất nước có hoà bình, để bắt tay xây dựng và bảo vệ một cuộc sống
mới, người ta càng phải nhận thức”. “Như là một điều mặc nhiên, đối với tác giả mà
cũng là đối với nhân vật, muốn giải quyết việc gì, trước tiên phải dò lại con người
của mình, phải sòng phẳng với mình đã. Trước khi bắt tay vào hành động, cả tác giả
và nhân vật đều thấy cần thiết phải bước vào một cuộc “chỉnh huấn”, tự xác định, để
rồi cứ thế mà làm. Còn mối quan hệ giữa tư tưởng và hành động không bao giờ
được đặt ra, bởi bao giờ cũng được quan niệm là nhất trí”. Với chủ đề “ân nghĩa ân
tình”, Vương Trí Nhàn xác định có hai cách dựng truyện phổ biến: cốt truyện “gặp
gỡ” hoặc “đi vào cuộc sống thường ngày”. Và dù mạch truyện được triển khai theo
kiểu nào chăng nữa thì đều để khẳng định: Cách mạng đã đem lại cuộc đời thật tốt
đẹp, con người sống với nhau, trong mọi hoàn cảnh đều tràn đầy ân nghĩa ân tình.
“Nếu so sánh với một chủ đề truyện thường thấy ở văn học phương Tây hiện đại,
“sự bất tương thông”, sự xa lạ giữa người với người, thậm chí sự chia lìa ngay trong
con người một nhân vật nào đó – thì truyện Việt Nam 1945 – 1975 là cả một đối
10
cực”. Trên cơ sở xác định, lí giải những chủ đề phổ biến trong truyện ngắn sau Cách
mạng, tác giả khẳng định: “trong sáng giản dị” là một “đặc tính chủ yếu của con
người thời đại” 1945 – 1975.
Bài nghiên cứu trên của tác giả Vương Trí Nhàn tuy có dung lượng ngắn
(hơn chục trang viết) nhưng đã thâu tóm được những vấn đề cơ bản và cách triển
khai những vấn đề đó trong truyện ngắn 1945 – 1975. Đây chính là thao tác
nghiên cứu theo tinh thần của lí thuyết diễn ngôn (mặc dù ở thời điểm viết – năm
1978, tác giả có thể chưa tiếp cận với lí thuyết này). Có thể khẳng định, cách diễn
giải và giọng điệu của bài viết đã tạo nên một diễn ngôn riêng trong hệ thống công
trình nghiên cứu về truyện ngắn 30 năm sau Cách mạng tháng Tám.
Một bài viết khác, cũng rất đáng chú ý là Thử tìm hiểu loại hình các mô-tip
chủ đề trong văn học Việt Nam hiện đại của Lại Nguyên Ân, đăng trên Tạp chí
văn học số 6, năm 1987 (bạn đọc cũng có thể tìm bài viết trên tại địa chỉ mạng
http://lainguyenan.free.fr/TheLoaiVanHoc/HeThong2.html). Theo Lại Nguyên
Ân, những “chủ đề” mà Vương Trí Nhàn xác định trong bài viết Về sự lựa chọn
chủ đề và phát triển tính cách trong truyện ngắn sau cách mạng “chính là những
mô-típ chủ đề, những mô-típ nghĩa nghệ thuật đã được tạo ra trong nền văn học
mới”. Trong khuôn khổ một bài báo, với chủ ý “chỉ nêu một số nét vắn tắt, gợi ra
một hướng nghiên cứu phân tích”, tác giả Lại Nguyên Ân đã xác định những môtíp chủ đề cơ bản trong văn học mới Việt Nam từ sau Cách mạng. Đó là: mô-típ
cách mạng − ngày hội – một mô-típ nghệ thuật được thể hiện khá tập trung ở
những sáng tác thơ, văn, kịch ngay sau cách mạng và đầu cuộc kháng chiến thứ
nhất; mô-típ thức tỉnh, giác ngộ − một mô-típ chủ đề khác khá tiêu biểu ở văn học
thời kỳ đầu; mô-típ vươn mình, đổi đời hết sức phổ biến trong nền văn học mới;
mô-típ nén tình riêng vì nghĩa lớn của cách mạng − mô-típ phổ biến trong nhiều
sáng tác thơ và văn xuôi 1945 – 1975. Mô-típ "nén tình riêng…" lại là một trường
hợp của một mô-típ chung hơn: mô-típ quyết tâm chiến đấu. Ở văn học cách mạng
thời kì 1955 – 1964, mô-típ ân tình cách mạng - một trong những cách để cụ thể
hóa mô-típ "niềm vui cách mạng" thể hiện đặc biệt rõ; mô-típ xả thân vì nghĩa lớn
là mô-típ chủ đề phổ biến nhất trong văn học từ giữa những năm 1960 đến giữa
những năm 1970. Cũng ở khoảng thời gian những năm 1960-1970, trình bày nội
11
dung ngày thường của đời sống cách mạng là một mô-típ nghệ thuật có phạm vi
thể hiện khá rộng rãi trong sáng tác, nhất là ở văn xuôi. Mô-típ này được thể hiện
ở hai dạng thường gặp nhất: truyện chiến đấu và truyện sản xuất, tương ứng với
hai phạm vi được coi là hiện thực cách mạng quan trọng nhất trong đời sống chính
trị đất nước đương thời. Trên cơ sở mô tả những mô-típ chủ đề chính đã được tạo
ra trong nền văn học mới Việt Nam từ sau cách mạng (“nền văn học mới” được
khảo sát ở đây kéo dài từ 1945 tới 1985), Lại Nguyên Ân đi tới kết luận: “Có thể
thấy rõ là trong nền văn học mới của bốn chục năm qua, chủ yếu là văn học thời
gian 1945-1975, những nhóm thể tài thế sự và đời tư tương đối ít phát triển.
Chiếm vị trí chủ đạo là nhóm thể tài lịch sử dân tộc. Do vậy tính chất sử thi là đặc
điểm nổi bật, quyết định của nền văn học này”. Tác giả chỉ ra: thể tài đời tư với tư
cách là một thể tài độc lập rất ít phát triển trong nền văn học mới. Nó chỉ là một
yếu tố chức năng để triển khai những chủ đề văn học bao quát hơn − những chủ đề
gắn chặt với lợi ích dân tộc, với lịch sử dân tộc đương đại, với nội dung chính trị
của thời đại. Thể tài thế sự trong nền văn học mới tương đối phát triển hơn so với
thể tài đời tư. Tuy nhiên, về cơ bản, yếu tố thế sự vẫn ít phát triển và chủ yếu tồn
tại trong quan hệ phối thuộc (trực tiếp hoặc gián tiếp) với thể tài lịch sử-dân tộc
trong các sáng tác của văn học mới. Theo Lại Nguyên Ân, nếu có thể tìm được
một ví dụ rõ nhất cho nhận định “thể tài thế sự ít phát triển” thì đó là sự vắng bóng
của các thể châm biếm, trào phúng. Văn học của tiếng cười ở đây chủ yếu chỉ phát
triển ở mảng "đánh địch", chĩa mũi nhọn đả kích vào kẻ thù dân tộc. Châm biếm
nội bộ chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ. Do đó, có thể khẳng định, thể tài chiếm vị trí
chủ đạo, quyết định toàn bộ diện mạo và hệ thống thể loại của nền văn học Việt
Nam sau Cách mạng là nhóm thể tài lịch sử - dân tộc. Phạm vi của các tác phẩm
thuộc thể tài lịch sử-dân tộc gần như trùm hết toàn bộ các sáng tác được thừa nhận
của nền văn học này, tạo nên tính sử thi - tính chất chủ đạo, nét đặc trưng của toàn
bộ văn học giai đoạn sau cách mạng tháng Tám.
Có thể thấy, bài viết Thử tìm hiểu loại hình các mô-tip chủ đề trong văn học
Việt Nam hiện đại của Lại Nguyên Ân đã xác định được những đặc điểm cơ bản
về nội dung thể tài của văn học sau cách mạng nói chung, của truyện ngắn giai
đoạn này nói riêng. Đi xa hơn Vương Trí Nhàn ở bài viết Về sự lựa chọn chủ đề