Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HỒNG ĐÀO
TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng ứng dụng
Mã Số: 60380104
Người hướng dẫn khoa học: Ts. Lê Nguyên Thanh
Học viên: Nguyễn Hồng Đào
Lớp: CHL Bạc Liêu Khóa 1
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi với sự
hướng dẫn của TS. Lê Nguyên Thanh.
Các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được nêu rõ nguồn gốc. Các kết
quả trình bày trong Luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công
trình khoa học nào trước đây.
Tác giả Luận văn
Nguyễn Hồng Đào
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Hình sự BLHS
Bộ luật Tố tụng hình sự BLTTHS
Cảnh sát điều tra CSĐT
Tòa án nhân dân TAND
Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTCBCA-BQP ngày 22/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng
TTLT 02/2017
Viện kiểm sát nhân dân VKSND
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG DO THIẾU CHỨNG CỨ
.....................................................................................................................................5
1.1. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung
do thiếu chứng cứ ..................................................................................................5
1.1.1. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung do thiếu chứng cứ trong giai đoạn truy tố 5
1.1.2. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung do thiếu chứng cứ trong giai đoạn xét xử ...
...........................................................................................................................10
1.2. Thực tiễn trả hồ sơ để điều tra bổ sung do thiếu chứng cứ......................13
1.2.1. Tình hình trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng ....................................................................................................................13
1.2.2. Những vướng mắc, hạn chế và nguyên nhân...........................................18
1.3. Những kiến nghị đối với việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung do thiếu
chứng cứ ...............................................................................................................30
CHƢƠNG 2. THỜI HẠN ĐIỀU TRA BỔ SUNG................................................34
2.1. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về thời hạn điều tra bổ sung ..34
2.1.1. Quy định về thời hạn điều tra bổ sung trong trường hợp Viện kiểm sát trả
hồ sơ điều tra bổ sung........................................................................................34
2.2.2. Quy định về thời hạn điều tra bổ sung trong trường hợp Tòa án trả hồ sơ
điều tra bổ sung .................................................................................................36
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thời hạn điều tra bổ sung ......................37
2.2.1. Tình hình áp dụng pháp luật về thời hạn điều tra bổ sung giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng .......................................................................................37
2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân...............................................42
2.3. Những kiến nghị đối với thời hạn điều tra bổ sung...................................46
Kết luận chƣơng 2 ...............................................................................................50
KẾT LUẬN..............................................................................................................51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 từng bước hoàn thiện
các quy định nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân, trong đó có chế định
trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung là giải pháp để các
cơ quan tiến hành tố tụng kịp thời phát hiện những vi phạm, thiếu sót trong giai
đoạn điều tra, truy tố, củng cố chứng cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án,
qua đó nhằm hạn chế được oan, sai, bỏ lọt tội phạm bảo đảm quyền con người,
quyền công dân. Mặc dù BLTTHS năm 2015 kế thừa và bổ sung kịp thời các quy
định của BLTTHS năm 2003 nhưng vẫn còn nhiều thiếu sót phải áp dụng văn bản
dưới luật để giải quyết, các quy định của BLTTHS và văn bản hướng dẫn thi hành
chưa đầy đủ nên dẫn đến nhiều cách vận dụng khác nhau trong việc trả hồ sơ để
điều tra bổ sung. Nghiên cứu các quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng trong thực tiễn, nhận thấy nguyên nhân chủ yếu để trả hồ
sơ là do thiếu chứng cứ, tuy nhiên còn nhiều trường hợp áp dụng không đúng quy
định của pháp luật và thiếu sự thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng nên
dẫn đến tình trạng trả không có căn cứ, có căn cứ nhưng không chấp nhận, vận dụng
không đúng quy định thời hạn điều tra bổ sung nên ảnh hưởng đến việc xác định sự
thật khách quan và tiến độ giải quyết vụ án.
Nghiên cứu quy định của pháp luật, những khó khăn vướng mắc trong việc
áp dụng pháp luật vào thực tiễn giải quyết, tìm ra giải pháp để áp dụng đúng và
thống nhất pháp luật, tuân thủ đúng quy định của pháp luật về căn cứ, thời hạn điều
tra bổ sung. Chính vì lẽ đó, người viết chọn đề tài “Trả hồ sơ để điều tra bổ sung
theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” từ thực tiễn áp dụng pháp luật để làm đề tài
luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay so với các công trình nghiên cứu và đề tài khác thì việc nghiên cứu
trả hồ sơ để điều tra bổ sung rất hạn chế, chủ yếu là các giáo trình của các cơ sở đào
tạo như: Các giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo của
Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, khoa Luật- Đại học
Quốc Gia Hà Nội….Nghiên cứu chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung có các đề tài
như: Nguyễn Văn Mai (2008), Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Luật Thành
2
phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Minh Cảnh (2008), Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung trong tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Thị Hải Châu (2010), Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học, khoa Luật- Đại
học Quốc Gia Hà Nội; Nguyễn Ngọc Kiện (2011), Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ
sung trong tố tụng hình sự, luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh...Nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật chế định trả hồ sơ để điều tra
bổ sung có các đề tài như: Nguyễn Thị Ngọc Lan (2014), Chế định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung của Tòa án trên cơ sở thực tiễn của Tòa án thành phố Hà Nội, luận văn
thạc sỹ luật học, khoa Luật- Đại học Quốc Gia Hà Nội; Nguyễn Thị Phương Huyền
(2016), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật
Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hải Phòng, luận văn thạc sĩ luật
học, Học viện Khoa học xã hội- Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Lê Thị
Thu Thủy (2017), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố từ thực tiễn
thành phố Hà Nội, luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội- Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Trần Anh Đức (2017), Chế định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn
tỉnh Phú Thọ), luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Quốc Gia Hà Nội...
Các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận, quy
định của pháp luật về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, có nghiên cứu tình hình
áp dụng pháp luật gắn với địa phương cụ thể. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu
trên nghiên cứu một cách tổng thể các quy định của chế định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung, chủ yếu là quy định của BLTTHS năm 2003, nghiên cứu về giai đoạn và thủ
tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung, chưa đi sâu nghiên cứu từng căn cứ cụ thể và thời
hạn điều tra bổ sung. Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu đề tài luận văn thạc sỹ
chủ yếu là theo định hướng nghiên cứu, chưa theo định hướng ứng dụng. Đặc biệt
trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu chưa có công trình nào nghiên cứu về đề tài này. Trong
đề tài nghiên cứu, trên cơ sở đối chiếu với BLTTHS năm 2003, luận văn chủ yếu
tập trung nghiên cứu quy định của BLTTHS năm 2015 và việc áp dụng pháp luật
vào trong thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu, Vĩnh Long từ năm 2017 đến năm
2019 với cách tiếp cận hoàn toàn mới theo định hướng ứng dụng về nội dung trả hồ
sơ để điều tra bổ sung với lý do thiếu chứng cứ và thời hạn điều tra bổ sung.
Về cơ bản luận văn thạc sĩ Luật học theo định hướng ứng dụng không trùng
lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu đã công bố trong phạm vi cả nước trong những
3
năm gần đây liên quan đến đề tài. Như vậy, trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên
cứu lý luận, công trình theo định hướng nghiên cứu, luận văn tiếp cận hoàn toàn
mới về nghiên cứu theo định hướng ứng dụng quy định của pháp luật vào trong thực
tiễn áp dụng trên địa bàn cụ thể để người viết hoàn thiện luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các trường hợp thiếu chứng cứ cần thiết
phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thời hạn liên quan đến việc trả hồ sơ để điều tra
bổ sung, làm rõ những vướng mắc từ quy định của pháp luật cũng như thực tiễn trả
hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Bạc
Liêu, tỉnh Vĩnh Long đề tài đề ra những kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật
và áp dụng pháp luật vào trong thực tiễn giải quyết, góp phần là tài liệu tham khảo
cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án có phát sinh trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong trường hợp
thiếu chứng cứ và thời hạn điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2015 và
văn bản hướng dẫn thi hành về trả hồ sơ để điều tra bổ sung liên quan đến lý do
thiếu chứng cứ và thời hạn điều tra bổ sung. Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong
các trường hợp khác không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về trả hồ
sơ để điều tra bổ sung với lý do thiếu chứng cứ, thời hạn điều tra bổ sung trên địa
bàn tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Vĩnh Long.
- Về thời gian: Tham khảo số liệu án trả hồ sơ để điều tra bổ sung từ năm
2016 đến năm 2018. Nghiên cứu thực tiễn giải quyết các vụ án từ năm 2017 đến
năm 2019.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu đề tài, người viết vận dụng phương pháp luận chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng,
Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền con người. Trên cơ sở
phương pháp luận, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Là phương pháp được sử dụng chủ yếu
trong luận văn, trên cơ sở tổng hợp các quy định của pháp luật và việc áp dụng pháp
4
luật vào trong thực tiễn giải quyết các vụ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, luận văn
phân tích những quy định của pháp luật, việc áp dụng pháp luật để đưa ra nhận định
và đề xuất làm rõ nội dung của đề tài.
Phương pháp thống kê: Dựa trên số liệu thực tiễn của các tỉnh Bạc Liêu, Vĩnh
Long, luận văn thống kê tình hình trả hồ sơ để điều tra bổ sung do thiếu chứng cứ
của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Phương pháp so sánh: Căn cứ các quy định của pháp luật hình sự kết hợp với
việc áp dụng pháp luật trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung do thiếu chứng cứ và
thời hạn điều tra bổ sung để làm rõ nội dung của đề tài.
Phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình: Lựa chọn những vụ án hình sự có
phát sinh trả điều tra bổ sung do thiếu chứng cứ điển hình, đặc trưng cho việc áp
dụng pháp luật để nghiên cứu việc vận dụng pháp luật, những vướng mắc, hạn chế
trong áp dụng pháp luật, là phương pháp nghiên cứu quan trọng để thực hiện đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về phương diện lý luận khoa học: kết hợp với các công trình nghiên cứu
khác, đề tài góp phần bổ sung, hoàn thiện quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung
liên quan đến thiếu chứng cứ, thời hạn điều tra bổ sung. Đề tài có thể sử dụng để
tham khảo nhằm phục vụ công tác nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các cơ
quan tiến hành tố tụng gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu từ những phân tích, kiến nghị, đề xuất có
thể làm tài liệu tham khảo để các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng vận dụng vào trong thực tiễn giải quyết vụ án đối với việc trả hồ sơ do thiếu
chứng cứ, thời hạn điều tra bổ sung được chính xác và thống nhất.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội
dung của luận gồm 2 chương:
Chƣơng 1. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung do thiếu chứng cứ.
Chƣơng 2. Thời hạn điều tra bổ sung.
5
CHƢƠNG 1
TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG DO THIẾU CHỨNG CỨ
1.1. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ
sung do thiếu chứng cứ
1.1.1. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung do thiếu chứng cứ trong giai đoạn truy tố
Để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, xác định sự thật khách quan của vụ án,
cần có các phương tiện dùng để chứng minh bản chất của sự việc, thông qua đó các
cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, thu thập, ghi nhận, kiểm tra, đánh giá chứng cứ
để đưa ra hướng giải quyết đúng đắn, toàn diện vụ án. Vì vậy, chứng cứ có vai trò
rất quan trọng đối với việc giải quyết vụ án hình sự, mở ra và kết thúc mọi giai đoạn
tố tụng hình sự.
Tại Điều 86 BLTTHS năm 2015 quy định: “Chứng cứ là những gì có thật,
được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ
để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và
những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Trên cơ sở kế thừa quy
định tại Điều 64 của BLTTHS năm 2003, khái niệm chứng cứ của BLTTHS năm
2015 mở rộng chủ thể có quyền thu thập chứng cứ ngoài các cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng thì các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành một
số hoạt động điều tra, người bào chữa để khắc phục những bất cập trong thực tiễn
và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp về tăng cường tranh tụng, bảo đảm quyền bào
chữa của những người tham gia tố tụng. Để thu thập và đánh giá chứng cứ cần xác
định được nguồn chứng cứ, theo quy định tại Điều 87 BLTTHS thì chứng cứ được
thu thập, xác định từ các nguồn là vật chứng; lời khai, lời trình bày; dữ liệu điện tử;
kết luận giám định, định giá tài sản; biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án; kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác;
các tài liệu, đồ vật khác, nếu nguồn chứng cứ dù có thật nhưng không được thu thập
đúng theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì không có giá trị pháp lý và
không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, để xác định được
chứng cứ làm căn cứ giải quyết vụ án hình sự thì chứng cứ đó phải có thật và phải
đảm bảo tính khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp của chứng cứ.
Trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp từ khi tiếp nhận và giải quyết nguồn tin về tội phạm,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi
6
phạm tội, người và pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện
và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người, pháp nhân
phạm tội, không làm oan người vô tội. Truy tố: Là giai đoạn của tố tụng hình sự do
Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng cần thiết nhằm buộc
tội bị can trước tòa án có thẩm quyền bằng bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố1
.
Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát thực hiện nhiều nhiệm vụ, quyền hạn để thực
hành quyền công tố của mình, trong đó có quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan để điều
tra bổ sung. Điều tra bổ sung: Là những trường hợp Viện kiểm sát hoặc Tòa án xét
thấy cần thiết phải tiến hành điều tra thêm để làm rõ các tình tiết của vụ án thì mới
có thể giải quyết đúng đắn vụ án2
. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một chế định
được quy định tại Điều 245 và 280 BLTTHS quy định người tiến hành tố tụng có
thẩm quyền của Viện kiểm sát, Tòa án có quyền ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp
pháp luật quy định nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự
khách quan, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Việc trả hồ sơ để
điều tra bổ sung là nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát thuộc chức năng thực
hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố để yêu cầu Cơ quan điều tra làm rõ các
tình tiết của vụ án nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn.
Về căn cứ trả điều tra bổ sung, tại điểm a khoản 1 Điều 245 BLTTHS năm
2015 quy định: “Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ vụ án, yêu cầu Cơ quan điều
tra điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Còn thiếu chứng cứ để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại
Điều 85 của Bộ luật này mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được;”
Điều 85 BLTTHS quy định 06 nhóm vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án
hình sự và được giải thích cụ thể tại khoản 2 Điều 3 TTLT 02/2017, nếu thiếu
những chứng cứ này thì không giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đúng
pháp luật, bao gồm:
Thứ nhất, có hành vi phạm tội xảy ra hay không là chứng cứ để xác định
hành vi đã xảy ra có đủ yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong
BLHS hay thuộc các trường hợp không phải là hành vi phạm tội; thời gian, địa điểm
1 Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB
Hồng Đức- Hội luật gia Việt Nam, tr. 435.
2 Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), tlđd (1), tr. 388.
7
và những tình tiết khác của hành vi phạm tội là chứng cứ xác định nếu có hành vi
phạm tội xảy ra thì xảy ra vào thời gian nào, ở đâu, phương pháp, thủ đoạn, công
cụ, phương tiện thực hiện tội phạm như thế nào.
Thứ hai, ai là người thực hiện hành vi phạm tội là chứng cứ xác định một chủ
thể cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội đó; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô
ý là chứng cứ xác định chủ thể có lỗi hoặc không có lỗi khi thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội nếu có lỗi thì là lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp hoặc lỗi vô
ý do quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả theo quy định tại Điều 10 và Điều 11 của
BLHS; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không là chứng cứ xác định khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã
đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự chưa, có mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác
làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hay không,
nếu có thì mắc bệnh đó vào thời gian nào, trong giai đoạn tố tụng nào; mục đích,
động cơ phạm tội là chứng cứ xác định chủ thể thực hiện hành vi phạm tội với mục
đích, động cơ gì, mục đích, động cơ phạm tội là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự hay là tình tiết định tội, tình tiết định khung hình phạt.
Thứ ba, những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can,
bị cáo là chứng cứ xác định bị can, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 51, Điều 84 của BLHS hoặc áp dụng tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52, Điều 85 của BLHS; đặc
điểm về nhân thân của bị can, bị cáo là chứng cứ xác định lý lịch của bị can, bị cáo,
nếu bị can, bị cáo là pháp nhân thương mại thì phải chứng minh tên, địa chỉ và
những vấn đề khác có liên quan đến địa vị pháp lý và hoạt động của pháp nhân
thương mại.
Thứ tư, tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra là chứng cứ
để đánh giá tính chất, mức độ thiệt hại, hậu quả về vật chất, phi vật chất do hành vi
phạm tội gây ra.
Thứ năm, nguyên nhân và điều kiện phạm tội là chứng cứ xác định nguyên
nhân chủ quan, khách quan, điều kiện cụ thể dẫn đến việc chủ thể thực hiện hành vi
phạm tội.
Thứ sáu, những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự,
miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt là chứng cứ chứng minh những vấn đề
được quy định tại các điều 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 59, 88 và các điều
luật khác của BLHS.
8
So với quy định của BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 bổ sung
thêm 02 nhóm vấn đề cần phải chứng minh là nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
Ngoài ra, mặc dù Điều 85 BLTTHS không đề cập đến nhưng theo hướng
dẫn tại điểm m, n khoản 2 Điều 3 TTLT 02/2017 còn có một số trường hợp thiếu
chứng cứ thì không có đủ căn cứ để giải quyết vụ án như: xác định tuổi của người
bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi; vị trí, vai trò của từng bị can trong trường
hợp đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức; xác định trách nhiệm dân sự của bị
can…đối với pháp nhân thương mại thì xác định điều kiện chịu trách nhiệm hình
sự và những vấn đề cần phải chứng minh quy định tại Điều 441 BLTTHS. Bên
cạnh đó theo quy định tại Điều 416 BLTTHS thì khi tiến hành tố tụng đối với
người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi phải xác định được: Tuổi, mức độ phát
triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người
dưới 18 tuổi; điều kiện sinh sống và giáo dục; có hay không có người đủ 18 tuổi
trở lên xúi giục; nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội. Như vậy, Luật quy
định khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại
các Điều 85, 416, 441 BLTTHS và TTLT 02/2017 thì Viện kiểm sát trả hồ sơ để
điều tra bổ sung, không cần phân biệt chứng cứ đó có quan trọng hay không, vì
những chứng cứ này luật nhận định nếu thiếu thì không giải quyết vụ án được
khách quan, toàn diện, đúng pháp luật. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp
thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề nêu trên, Viện kiểm
sát đều trả hồ sơ để điều tra bổ sung, mà Viện kiểm sát chỉ trả điều tra bổ sung khi
không thể tự mình điều tra bổ sung được. Mặt khác nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để
điều tra bổ sung và khắc phục những khó khăn trong quá trình thu thập chứng cứ
tại khoản 5 Điều 2 TTLT 02/2017 quy định “Không trả hồ sơ để điều tra bổ sung
khi thiếu chứng cứ để chứng minh thuộc một trong các trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều này nhưng vẫn truy tố, xét xử được hoặc không thể thu thập được
chứng cứ đó”. Tóm lại, không phải tất cả mọi trường hợp thiếu chứng cứ Viện
kiểm sát đều trả hồ sơ để điều tra bổ sung mà Viện kiểm sát chỉ trả hồ sơ để điều
tra bổ sung khi thỏa mãn đủ cả ba điều kiện đó là: chứng cứ dùng để chứng minh
một trong những vấn đề quy định tại các Điều 85, 416 BLTTHS và TTLT
02/2017; Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được; những chứng cứ này có
thể thu thập được hoặc nếu thiếu thì không thể truy tố được.
9
Luật quy định Viện kiểm sát chỉ trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi Viện kiểm
sát không thể tự mình bổ sung được vì Điều 236 BLTTHS cho phép Viện kiểm sát
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án và trực tiếp
tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để
quyết định việc truy tố hoặc khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà xét thấy không
cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra. Như vậy, với chức năng thực hành
quyền công tố Viện kiểm sát có thể tự nh bổ sung được các chứng cứ thông qua
hai nhóm hoạt động là yêu cầu cung cấp tài liệu và trực tiếp tiến hành các hoạt động
điều tra. Nghiên cứu quy định của BLTTHS các hoạt động điều tra do Viện kiểm sát
trực tiếp tiến hành gồm 07 hoạt động: Hỏi cung bị can; lấy lời khai người làm
chứng, bị hại, đương sự; đối chất; khám xét, thu giữ, tạm giữ, xử lý vật chứng; thực
nghiệm điều tra; trưng cầu giám định; yêu cầu định giá tài sản. So với Cơ quan điều
tra thì Viện kiểm sát chỉ tiến hành được một số hoạt động điều tra nên việc thu thập
chứng cứ để bổ sung hạn chế hơn, vì chức năng của Cơ quan điều tra là chuyên
trách về điều tra vụ án, còn Viện kiểm sát với chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động điều tra chỉ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định
của BLTTHS. Tuy nhiên, so với BLTTHS năm 2003 thì các hoạt động điều tra thu
thập chứng cứ của Viện kiểm sát mở rộng hơn và được đảm bảo để thực hiện nhiều
hơn như bổ sung thêm các hoạt động khám xét, thu giữ, tạm giữ, xử lý vật chứng;
trưng cầu giám định; yêu cầu định giá tài sản; quy định Kiểm sát viên trực tiếp tiến
hành một số hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS.
Thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung, theo quy định tại các Điều 41, 245
BLTTHS thì do Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng được Viện trưởng Viện kiểm sát
phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết vụ án quyết định.
Theo quy định của ngành kiểm sát nhân dân Kiểm sát viên VKSND tối cao hoặc
Kiểm sát viên cao cấp giữ chức vụ Vụ trưởng ký quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung theo sự phân công của Viện trưởng và ký thừa lệnh Viện trưởng3
. Đối với vụ
án do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, quyết
định việc truy tố, phân công cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 239 BLTTHS nếu Tòa án trả hồ sơ
3
Phụ lục số 102 các văn bản Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phân công cho Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Kiểm sát viên cao cấp giữ chức vụ Vụ trưởng ký khi thực hành quyền công
tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố (Ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày
29/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao)
10
cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung thì thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung
thuộc về Viện kiểm sát cấp trên đã quyết định việc truy tố4
.
1.1.2. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung do thiếu chứng cứ trong giai đoạn xét xử
Xét xử vụ án hình sự: Là giai đoạn của tố tụng hình sự do Tòa án có thẩm
quyền nhân danh nhà nước thực hiện nhằm xem xét, đánh giá toàn diện chứng cứ
liên quan đến vụ án hình sự để ra bản án, quyết định xác định có hành vi phạm tội
hay không, người thực hiện hành vi phạm tội, hình phạt được áp dụng đối với người
đã thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề khác có liên quan trong vụ
án hình sự. Giai đoạn xét xử bắt đầu sau khi Tòa án nhận được cáo trạng hoặc quyết
định truy tố và hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến và kết thúc khi Tòa án ra
bản án, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hình sự có hiệu lực pháp luật. Theo quy
định tại khoản 6 Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Điều 6 Luật tổ chức TAND năm
2014, Điều 27 BLTTHS thì việc xét xử vụ án hình sự được tiến hành ở hai cấp xét
xử là sơ thẩm và phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm không phải là cấp xét xử
mà là trường hợp xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật
khi phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới theo quy định
của pháp luật tố tụng. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung chỉ được áp dụng ở giai đoạn
xét xử sơ thẩm, giai đoạn xét xử phúc thẩm nếu có trả hồ sơ để điều tra thì để điều
tra lại5
, điều tra lại và điều tra bổ sung là hai chế định hoàn toàn khác nhau.
Về căn cứ trả điều tra bổ sung, tại điểm a khoản 1 Điều 280 BLTTHS quy
định: “Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để
điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Còn thiếu chứng cứ để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại
Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;”
Đó là 06 nhóm vấn đề và một số trường hợp thiếu chứng cứ thì không thể
giải quyết vụ án được quy định tại các Điều 85, 416, 441 BLTTHS và TTLT
02/2017 được phân tích ở phần căn cứ Viện kiểm sát quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung nêu trên. Như vậy, Luật quy định khi thiếu chứng cứ dùng để chứng
minh một trong những vấn đề quy định tại các Điều 85, 416, 441 BLTTHS và
TTLT 02/2017 thì Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, không cần phân biệt chứng
4 Điều 49 Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố (Ban
hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao), Điều 20 Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự (Ban hành kèm theo
Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao).
5 Khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.