Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học lịch sử ở trường Trung học Phổ thông
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
--------
HÀ THỊ LỊCH
Tæ CHøC HO¹T §éNG NHãM TRONG
D¹Y HäC LÞCH Sö ë TR¦êNG TRUNG HäC PHæ TH¤NG
(Vận dụng qua dạy học lịch sử thế giới từ nguồn gốc
đến giữa thế kỉ XVI lớp 10, chƣơng trình chuẩn)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC
Hà Nội - 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
--------
HÀ THỊ LỊCH
Tæ CHøC HO¹T §éNG NHãM TRONG
D¹Y HäC LÞCH Sö ë TR¦êNG TRUNG HäC PHæ TH¤NG
(Vận dụng qua dạy học lịch sử thế giới từ nguồn gốc
đến giữa thế kỉ XVI lớp 10, chƣơng trình chuẩn)
Chuyên ngành: LÍ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN LỊCH SỬ
Mã số : 62.14.01.11
LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1: PGS.TS. TRỊNH ĐÌNH TÙNG
2: TS. VŨ THỊ NGỌC ANH
Hà Nội - 2013
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, với sự phát triển theo cấp số nhân của các tiến bộ khoa học công
nghệ hiện đại, khối lượng tri thức mới tăng lên ngày càng nhanh và do vậy chu kì
đổi mới của công nghệ và tri thức ngày càng được rút ngắn. Kiến thức học trong
nhà trường trở nên ít ỏi, nhanh chóng lạc hậu và không đủ dùng trong suốt cuộc đời.
Để thích ứng với những thay đổi này, hầu hết các nước trên thế giới đã thực hiện
đổi mới giáo dục dựa trên quan điểm phát huy tính tích cực của học sinh (HS), đề
cao vai trò tự học của HS, kết hợp với sự hướng dẫn của giáo viên (GV) được áp
dụng rộng rãi. Phương pháp giáo dục này đã làm thay đổi không chỉ cách giảng dạy
mà còn thay đổi cả việc tổ chức quá trình dạy học.
Trong xu thế hội nhập quốc tế và khu vực, với sự phát triển mạnh mẽ của
nền kinh tế tri thức, hơn bao giờ hết đổi mới giáo dục (GD) trở thành vấn đề cấp
thiết đặt ra cho tất cả các ngành học, cấp học thuộc hệ thống GD phổ thông (PT)
nước ta trong những năm đầu của thế kỉ XXI. Ở nước ta hiện nay, tuy có cải cách
giáo dục cho sự phát triển kinh tế, xã hội nhưng sự thay đổi này còn quá chậm so
với các nước trên thế giới. Điều này đặt ra cho nền giáo dục Việt Nam phải đẩy
mạnh đổi mới giáo dục một cách toàn diện, cấp bách.
Đổi mới GD đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ các yếu tố cơ bản của quá trình dạy
học (QTDH) như: mục tiêu dạy học, nội dung dạy học, phương tiện dạy học, môi trường
dạy học, kiểm tra đánh giá. Tuy nhiên, sự đổi mới nội dung và phương pháp dạy học
(PPDH) chỉ thực sự có ý nghĩa và mang tính khả thi khi được tiến hành đồng bộ với việc
đổi mới các hình thức dạy học. Nói cách khác, phải tạo ra được các hình thức tổ chức
dạy học (HTTCDH) phong phú có đủ khả năng để thể hiện và chuyển tải nội dung và
PPDH. Một trong những hình thức dạy học hiện nay đang được các giáo viên PT quan
tâm sử dụng là tổ chức hoạt động nhóm (TCHĐN). Dưới sự điều khiển của GV các hoạt
động riêng biệt của từng cá nhân HS được liên kết hữu cơ với nhau trong một hoạt động
chung nhằm giải quyết những nhiệm vụ cụ thể của nhóm học tập.
2
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực trong độc
lập nhận thức của HS hiện nay đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu, đặc biệt đối
với giáo viên bộ môn lịch sử vì hiện nay thực trạng chất lượng môn lịch sử qua các
kì thi tốt nghiệp, cao đẳng và đại học còn thấp. Môn lịch sử bị đưa lên bàn cân, là đề
tài tranh luận sôi nổi về: Nguyên nhân nào dẫn tới chất lượng học tập môn lịch sử
thấp? Câu hỏi làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử cũng đã
được Bộ Giáo dục và Đào tạo, các nhà giáo dục, các giáo viên lịch sử và cả xã hội
quan tâm. TCHĐN trong dạy học lịch sử đã và đang được coi là một trong những
nhân tố quan trọng góp phần đổi mới phương pháp dạy học lịch sử hiện nay ở
trường THPT. Bởi vì, TCHĐN góp phần phát huy năng lực nhận thức độc lập, tạo hứng
thú học tập cho HS, nâng cao hiệu quả bài học lịch sử. Hiện nay, việc TCHĐN đã được
GV sử dụng trong dạy học lịch sử (DHLS) ở trường THPT.
Tuy nhiên, chất lượng và hiệu quả của việc TCHĐN chưa cao, còn rất nhiều hạn
chế chủ yếu nặng về hình thức. Thực tế khi GV chia nhóm, HS được giao nhiệm vụ hoạt
động cùng nhau song các em chưa hứng thú với việc đó. Hoặc nhận nhiệm vụ hoạt động
cùng nhau nhưng không sôi nổi, tồn tại tư tưởng dựa dẫm, các em yếu kém lười nhác tìm
kiếm sự giúp đỡ từ những em khá, giỏi trong nhóm. Do đó tuy kết quả của hoạt động
nhóm cao hơn song các em khá, giỏi cảm thấy bị lợi dụng, ít hứng thú với việc học
nhóm, thích hoạt động cá nhân hơn. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng này chủ
yếu là do GV chia nhóm không hợp lý, lựa chọn hình thức TCHĐN không phù hợp với
nội dung bài học, các nhiệm vụ giao cho HS không phù hợp với hoạt động nhóm, thời
gian trên lớp ít, lớp học đông,... Để hoạt động nhóm có hiệu quả thì điều quan trọng có
tính chất quyết định là phải kích thích, thu hút được HS sẵn sàng nhận nhiệm vụ và thích
thú với hoạt động nhóm. Các em sẽ thấy rằng sự thành công của mình phụ thuộc vào kết
quả của toàn bộ thành viên trong nhóm. Thực tế cho thấy có những dạng TCHĐN sẽ làm
tăng chất lượng giờ học nhưng cũng sẽ có một số dạng nhóm lại cản trở việc học. Vấn đề
đặt ra là GV sẽ TCHĐN như thế nào để đạt hiệu quả và làm thế nào để khắc phục được
những hạn chế trong TCHĐN hiện nay. Từ những vấn đề lí luận và thực tiễn trên, chúng
tôi cho rằng cùng với các PPDH khác, TCHĐN là một trong những biện pháp quan trọng
3
để nâng cao chất lượng dạy học (DH). Nó góp phần trang bị đầy đủ tri thức để thế hệ trẻ
bước vào tương lai, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh sánh ngang tầm
các nước trong khu vực và trên thế giới.
TCHĐN trong DHLS ở trường PT là một đề tài có ý nghĩa cả về mặt khoa học và
thực tiễn. Từ những lý do trên chúng tôi chọn đề tài TCHĐN trong dạy học Lịch sử ở
trường THPT (Vận dụng qua dạy học lịch sử thế giới từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XVI
lớp 10, chương trình chuẩn) để nghiên cứu với mong muốn góp phần tìm ra biện pháp
thích hợp TCHĐN có hiệu quả cho HS nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khẳng định vai trò, ý nghĩa của TCHĐN trong DHLS ở trường
THPT, luận án đề xuất các dạng TCHĐN theo hướng phát huy tính tích cực của HS.
Đồng thời luận án cũng đưa ra một số yêu cầu nhằm thực hiện tốt những dạng TCHĐN
và các biện pháp đã nêu trong dạy học phần lịch sử thế giới từ nguồn gốc đến giữa thế
kỉ XVI lớp 10, nhằm góp phần nâng cao chất lượng DHLS ở trường THPT.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án sẽ tập trung giải quyết những nhiệm vụ
sau:
- Nghiên cứu tài liệu về giáo dục học và giáo dục lịch sử để làm rõ những
vấn đề lí luận về TCHĐN trong DHLS ở THPT.
- Khảo sát, điều tra thực tiễn TCHĐN trong DHLS ở trường THPT.
- Xác định mục tiêu về kiến thức, kĩ năng phần lịch sử thế giới từ nguồn gốc
đến giữa thế kỉ XVI trong chương trình, sách giáo khoa (SGK) Lịch sử lớp 10
THPT (chương trình chuẩn) để làm căn cứ cho việc TCHĐN.
- Đề xuất các dạng TCHĐN cho HS trong DHLS ở trường THPT.
- Lựa chọn các biện pháp thực hiện các dạng TCHĐN trong DHLS phần lịch
sử thế giới từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XVI.
- Thiết kế kế hoạch bài học và thực nghiệm sư phạm (TNSP) toàn phần để
kiểm chứng các biện pháp sư phạm, trên cơ sở đó rút ra kết luận về tính khả thi của
4
các biện pháp sư phạm được tiến hành trong luận án.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình TCHĐN trong DHLS ở trường
THPT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án không đi sâu vào tìm hiểu tất cả các dạng TCHĐN, căn cứ vào đặc
trưng và tính đặc thù, sự phù hợp với bộ môn lịch sử chúng tôi chỉ tập trung vào
một số dạng TCHĐN mà chúng tôi cho là có tính khả thi áp dụng được trong dạy
học bộ môn.
Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu là TCHĐN trong bài hình thành kiến
thức mới.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi chọn 5 trường THPT để thực
nghiệm toàn phần là: Trường THPT Phù Ninh (tỉnh Phú Thọ), Trường THPT
Chuyên Hùng Vương (tỉnh Phú Thọ - Đại diện khối trường chuyên), Trường THPT
Cầm Bá Thước (Thanh Hóa), Trường THPT Lạc Long Quân (tỉnh Hòa Bình),
Trường THPT Nguyễn Khuyến (tỉnh Nam Định), Trường THPT Quang Trung (Hà
Đông – Hà Nội)…
Nội dung thực nghiệm là các biện pháp TCHĐN vận dụng trong dạy học
phần lịch sử thế giới từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XVI lớp 10 (chương trình chuẩn).
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của đề tài dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đường lối của Đảng, Nhà nước về công tác
GD và những vấn đề liên quan đến lí luận và phương pháp dạy học nói chung, lí luận và
phương pháp dạy học bộ môn lịch sử nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Là một công trình nghiên cứu thuộc chuyên ngành Lý luận và PPDH môn
lịch sử, luận án của tôi đảm bảo đầy đủ các yêu cầu về phương pháp của một luận
5
án Giáo dục học chuyên ngành Lí luận và phương pháp dạy học bộ môn lịch sử
trong đó coi trọng phương pháp nghiên cứu điều tra khảo sát và TNSP. Phương
pháp nghiên cứu tác động (action research) để xử lý thông tin từ đó khẳng định biện
pháp luận án đưa ra có mang tính khả thi và có áp dụng đại trà được không.
5. Đóng góp của luận án
5.1. Tiếp tục khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc TCHĐN trong dạy học nói chung
môn lịch sử ở trường PT nói riêng ở trường THPT. Luận án sẽ góp phần làm phong
phú thêm lí luận dạy học bộ môn về vấn đề TCHĐN trong DHLS.
5.2. Cung cấp thêm những số liệu điều tra, khảo sát về TCHĐN trong DHLS ở
trường PT. Đánh giá đúng thực trạng việc TCHĐN ở trường PT hiện nay.
5.3. Thiết kế được một số dạng tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học lịch sử ở
trường THPT.
5.4. Đề xuất được một số biện pháp TCHĐN trong DHLS ở trường PT. Luận án
giúp cho tác giả, đồng nghiệp biết cách vận dụng các dạng TCHĐN trong DHLS ở
trường THPT. Đây là tài liệu tham khảo bổ ích cho các Nghiên cứu sinh, học viên
Cao học, GV THPT, cho sinh viên các trường cao đẳng và đại học sư phạm.
6. Giả thuyết khoa học của đề tài
Nếu thực hiện một cách linh hoạt các biện pháp TCHĐN trong dạy học lịch
sử ở trường THPT mà tác giả đề xuất trong luận án cộng với việc đảm bảo các yêu
cầu khi TCHĐN thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường
THPT.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phần Phụ lục, luận án
được cấu tạo thành 4 chương.
Chương 1: Tổng quan
Chương 2: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc tổ chức hoạt động nhóm trong
dạy học lịch sử ở trường phổ thông
6
Chương 3: Thiết kế một số dạng tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học lịch
sử ở trường THPT (Vận dụng qua dạy học lịch sử thế giới từ nguồn gốc đến giữa
thế kỉ XVI lớp 10 chương trình chuẩn)
Chương 4: Các biện pháp tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học lịch sử thế giới
từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XVI lớp 10 chương trình chuẩn. Thực nghiệm sư phạm
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN
TCHĐN trong dạy học là một vấn đề thu hút được sự quan tâm nghiên cứu
của các nhà GD trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Đây là một trong
những thành tựu nghiên cứu quan trọng của lí luận dạy học, đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này, mỗi công trình lại nghiên cứu và đóng góp những khía
cạnh khác nhau về TCHĐN. Ở những góc độ tiếp cận khác nhau đó, các nhà nghiên
cứu đã đưa ra những quan niệm, cách thức, biện pháp,… về TCHĐN trong DH.
Chúng tôi xin điểm qua tình hình nghiên cứu về TCHĐN theo tiến trình thời gian
đồng thời theo khu vực và thế giới như sau:
1.1. Tình hình nghiên cứu TCHĐN trên thế giới
1.1.1. Tình hình nghiên cứu TCHĐN trên thế giới thời kì trước năm 1945
Ngay từ thời cổ đại và trung đại, các nhà GD phương Đông và phương Tây đều
thống nhất quan điểm chia người học thành những nhóm đối tượng để truyền đạt kiến
thức. Tuy nhiên cách chia này chủ yếu mang tính chủ quan của người thầy chứ chưa có
sự tính toán sắp xếp nhóm theo chủ đích mang lại hiệu quả GD cao.
Đến thời cận đại ở châu Âu, ưu thế của TCHĐN mới chính thức được nhìn nhận.
Nguyên nhân chính dẫn đến việc TCHĐN được bắt đầu chú ý đưa vào nhà trường, do
xuất phát của yêu cầu thực tiễn lịch sử. Nếu như thời kì trung đại, với nền kinh tế tự
nhiên, tự cung tự cấp khép kín trong các lãnh địa, mỗi cá nhân làm độc lập tạo ra sản
phẩm của mình, thì đến thời cận đại, các cuộc cách mạng tư sản lần lượt thành công ở
hàng loạt các nước Âu, Mĩ, tạo điều kiện cho cuộc cách mạng công nghiệp phát triển
rộng khắp. Nền sản xuất của thời đại công nghiệp là nền sản xuất quy mô lớn. Trong nền
sản xuất ấy, sản xuất được tổ chức theo một dây chuyền liên hoàn, mỗi công nhân chỉ
chuyên môn hóa một chi tiết cụ thể trong dây chuyền đó. Mà sản phẩm muốn đạt hiệu
quả chất lượng cao chỉ khi dây chuyền sản xuất đó hoạt động đồng bộ, phối hợp nhịp
nhàng giữa một nhóm người nhất định, nghĩa là nhóm người đó phải làm việc hiệu quả.
8
Như vậy, cuộc sống lao động thực tiễn đòi hỏi người lao động phải có kĩ năng làm việc
tập thể, ý niệm về kĩ năng làm việc nhóm manh nha bắt đầu hình thành. Có thể nói, thời
cận đại hầu hết các phát minh khoa học thường gắn với thực tiễn, trong quá trình lao
động, thực tiễn đòi hỏi phải cải tiến kĩ thuật vì thế máy hơi nước, máy kéo sợi,… đã ra
đời. Và cũng từ đòi hỏi của thực tiễn lao động sản xuất đòi hỏi nhà trường phải cung ứng
được cho xã hội nguồn lao động có sự thay đổi về chất, từ đó buộc trường học phải thay
đổi cách thức tổ chức hoạt động học tập (HĐHT) cho HS, sớm cho các em làm quen với
làm việc nhóm ngay từ khi còn ngồi trong ghế nhà trường.
Vì những lí do nêu trên nên đến cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, TCHĐN bắt
đầu được áp dụng chính thức ở châu Âu. Khởi đầu là linh mục A. Bel và một số nhà
GD khác như: Đ. Lancaste, Girard. Từ năm 1789, họ đã có sáng kiến đưa ra hình
thức dạy học tương trợ. Với hình thức này, HS được chia thành các nhóm theo trình độ
để học tập.
Anh là một trong những quốc gia đi đầu trong việc phát triển GD thời cận đại.
Nền tảng cho những bước tiến vững chắc về GD ở Anh chính là sự kiện nước Anh là
nước đi đầu trong cuộc cách mạng công nghiệp thế kỉ XVIII, làm thay đổi căn bản nền
sản xuất vật chất. Nước Anh trở thành công xưởng của thế giới, nhu cầu của nước Anh
lúc này là cần một đội ngũ nhân công đông đảo, có trình độ năng lực cao. Nhu cầu về
lao động lúc này đòi hỏi các lớp học đông HS ra đời. Nhưng một lớp học đông HS như
thế làm thế nào để cho các em học tập có hiệu quả, đây là một câu hỏi khó đối với các
nhà GD Anh. Sau một thời gian dài trăn trở, năm 1878, hai nhà GD người Anh là Ben
và Lancanxto đã tìm ra câu trả lời. Hai ông đã có sáng kiến tiến hành hình thức dạy
kèm cặp. Những HS lớn tuổi có kinh nghiệm được GV dạy trước và họ sẽ thay mặt GV
kèm cặp cho nhiều HS khác cùng lớp. Hình thức học theo "hệ thống kèm cặp" tuy phần
nào khắc phục được tình trạng lớp đông và có quá nhiều trình độ khác nhau bằng cách
cho các em học theo nhóm nhưng hình thức nhóm này vẫn chưa thực sự có hiệu quả.
Cùng trào lưu đưa TCHĐN vào trường học của Anh, ở Đức cũng có rất
nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Trong đó tiêu biểu nhất là Giáo sư
Georg Michael Kerschensteiner (1854 - 1932), ông chuyên nghiên cứu về lí luận
9
GD, ông đã đưa nguyên tắc của “nhà trường tích cực” vào giảng dạy ở trường trung
học và tiểu học. Trong cuốn Theorie der Buildungs-organisation (Lý thuyết về tổ chức
GD), ông cho rằng, GV có thể thông qua hình thức học tập tự quản theo nhóm để phát
triển tính cách học của HS. Theo ông, hoạt động chung trong nhóm không chỉ khơi dậy
tinh thần trách nhiệm, ý thức của HS mà còn loại bỏ những động cơ ích kỉ. Tuy nhiên, ông
lưu ý, nếu sử dụng không tốt hình thức dạy học này vẫn có thể dẫn tới một loạt ích kỉ đặc
biệt – đó là ích kỉ cộng đồng. Ganh đua với động cơ không tốt có thể tạo nên thói ích kỉ
của HS.
Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây cũng đã có nhiều công trình nghiên
cứu về TCHĐN. Trong đó phải kể đến, Nadezhda. K. Krupskaya (1869 – 1939), là
vợ của Lênin nhưng bà đồng thời là người đã khởi đầu nền GD học Mácxít – Leninnít.
Di sản về GD của bà bao hàm mọi vấn đề về đường lối GD, từ những nguyên tắc cơ
bản trong tổ chức và quản lí trường học, nội dung GD và đạo tạo GV. N.K. Krupskaya
coi nhiệm vụ cơ bản của người GV là giúp cho HS tự tổ chức, thân tình gợi ý cho
chúng cách tốt nhất để thực hiện nhiệm vụ cho trước, chỉ ra cách nêu lên những câu hỏi
thích hợp và làm thế nào để trả lời các câu hỏi đó. Bản thân trẻ cần thảo luận tập thể
với các bạn trong nhóm học tập, đưa ra các quyết định và thực hiện các quyết định đó.
Bằng cách đó, chúng sẽ phát triển ý thức trách nhiệm đối với công việc được giao, trở
nên có kỉ luật [83,265].
A. Ja. Kiel ở Ba Lan đã nghiên cứu về sự phụ thuộc của HĐHT theo nhóm
vào lứa tuổi của HS. Công trình nghiên cứu này của ông được chính thức công bố
năm 1935. Kết quả cho thấy, HS ở lứa tuổi từ 10 đến 18 đạt kết quả nhất trong học
tập theo nhóm. Theo sự lí giải của A. Ja. Kiel, ở lứa tuổi này, các em có nhu cầu
hợp tác rất cao. Sự phát triển tư duy ngôn ngữ của các em tương đối hoàn thiện hơn
và có năng lực tự đánh giá [83, 265].
Ở Mĩ, cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, do ảnh hưởng của sự tiến bộ khoa học
kĩ thuật nền GD Mĩ có những bước tiến rõ rệt. John Dewey – một trong những nhà
GD có ảnh hưởng nhất của thế kỉ XX. Jonh Dewey sinh năm 1859, tại thành phố
Burlington, bang Vermont. John Dewey tuyên bố: GD đã là cuộc đời chứ không chỉ
10
là nơi chuẩn bị vào đời. Ông chủ trương xây dựng nhà trường tích cực trong đó cách
tổ chức dạy học quan trọng nhất là tổ chức cho HS học tập theo nhóm. Theo ông, môi
trường có ảnh hưởng rất lớn đến trẻ em, do đó phải tạo một môi trường càng gần với
cuộc sống xã hội càng tốt [83, 213]. Lúc đó, quan điểm của Dewey khá tiến bộ và có
ảnh hưởng sâu sắc tới nền GD, đặc biệt những ảnh hưởng của sự phát triển của
phương pháp làm việc theo nhóm bắt đầu được nhận thấy.
Carl Rogers (1902 – 1987), chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Jonh Dewey, ông
đã trở thành nhà GD học, các bài viết về GD của Rogers đều khẳng định rằng HS có
mối quan tâm và hứng thú riêng, nhiệm vụ của người thầy là phải khơi dậy, giúp đỡ
chúng bộc lộ và phát triển [83,320]. Ông cho rằng mục đích duy nhất của GD là
giúp người học nhận ra rằng không có kiến thức nào là cố định, mà chỉ có quá trình
tìm kiếm tri thức mới mang lại nền tảng cho sự vững bền. Từ mục đích đó, ông đã
xây dựng chiến lược dạy học lấy HS làm trung tâm. Theo ông, dạy học lấy HS làm
trung tâm là tập hợp những hoạt động đa dạng để tạo lập và duy trì bầu không khí
tâm lí thuận lợi cho việc tiếp thu tri thức của HS.
Nhận xét: Như vậy, những ý tưởng về việc TCHĐN của những thế kỉ XVIII,
XIX và những thập niên đầu của thế kỉ XX đã được áp dụng ngày càng mạnh mẽ
trong thực tiễn dạy học của hầu hết các nước trên thế giới. Hiện nay, PPDH này đã
từng bước khẳng định và ngày càng thể hiện được ưu thế trong hệ thống các PPDH
tích cực. Tuy nhiên có thể khẳng định, thời kì đầu, những nghiên cứu của thời kì
này vẫn chỉ là những thử nghiệm về mặt tổ chức chứ chưa có một mô hình và một lí
thuyết nào về hình thức và PPDH độc lập so với các PPDH khác.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu TCHĐN trên thế giới thời kì từ 1945 đến nay
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Cuộc cách mạng Khoa học - kĩ thuật hiện
đại đã diễn ra với quy mô rộng lớn, nội dung sâu sắc và toàn diện, nhịp độ vô cùng
nhanh chóng. Nó đã đưa lại nhiều thành tựu kì diệu và những đổi thay to lớn trong
đời sống nhân loại. Nền văn minh thế giới có những bước nhảy vọt mới với những
tác động tích cực về nhiều mặt như tăng năng suất lao động, không ngừng nâng cao
chất lượng cuộc sống của con người, dẫn đến những thay đổi lớn về cơ cấu dân cư,
11
chất lượng nguồn nhân lực. Đặc biệt, cuộc cách mạng này đặt ra những đòi hỏi mới
về GD và đạo tạo nghề nghiệp. Những nghiên cứu về TCHĐN đã có những thay đổi
cả về lượng và chất trong thời kỳ này. Có thể nói, nửa cuối thế kỉ XX và bước sang
những năm đầu của thế kỉ XXI, TCHĐN đang ngày càng khẳng định được vị trí, vai
trò của nó trong việc nâng cao chất lượng dạy và học của nhân loại. Cho nên hiện
nay, TCHĐN được sử dụng thường xuyên, liên tục, đặc biệt ở các nước phát triển.
Theo thời gian, dạy học nhóm ngày càng phát triển và chiếm được ưu thế ở Anh
suốt chiều dài của thế kỉ XX và những thập niên đầu của thế kỉ XXI. Hiện nay, ngoài
việc tiếp tục hoàn chỉnh về cơ sở lí luận về TCHĐN, một loạt các nghiên cứu thực
nghiệm về TCHĐN ở Anh đã được thực hiện thông qua một số dự án lớn. Các nghiên
cứu nhóm được thực hiện trong các lớp học hàng ngày ở Anh đã chỉ ra rằng, làm việc
nhóm có thể thúc đẩy việc học tập và sự tham gia tích cực giữa những HS. Từ nghiên
cứu này, các nhà GD Anh đã thực hiện dự án SPPING nhằm phát triển năng lực
TCHĐN cho GV. Chương trình đã hướng dẫn GV lập các kế hoạch soạn bài để giúp HS
phát triển các kĩ năng làm việc nhóm hiệu quả, chuyên nghiệp, khả năng giao tiếp và tính
hòa đồng xã hội. Để hỗ trợ cho học tập nhóm, các quốc gia phát triển đang ứng dụng
rộng rãi phương pháp học cộng tác nhóm với sự trợ giúp của máy tính. Khởi động cho
phong trào này là Fischer và Oswald, Stahl. Theo họ, mục đích của phương pháp này là
chia sẻ tri thức một cách dễ dàng, thuận tiện, nâng cao tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn
nhau của HS khi làm việc theo nhóm. Nghiên cứu chỉ ra rằng, phương pháp học cộng tác
với sự trợ giúp của máy tính là hoạt động mang tính năng động.
Nội dung trọng tâm của chương 18 trong cuốn Hướng dẫn thực hành dạy học
ngày nay của tác giả Geoffrey Petty, tập trung cho việc trả lời câu hỏi: “Tại sao lại chia
nhóm?”. Theo tác giả, học theo nhóm bao giờ cũng sôi nổi. Nó tạo cho HS cơ hội sử
dụng các phương pháp, nguyên tắc và từ vựng được dạy. Các HS nhút nhát, thường là ít
phát biểu trong lớp, sẽ có môi trường động viên để tham gia xây dựng bài… Đặc biệt
thông qua học tập nhóm, các em có thể đạt được những điều mà các em không thể làm
được một mình [22, 203].
12
Giáo sư Berdn Meier (Đại học Potsdam – Cộng hòa Liên bang Đức) cùng
với tác giả Nguyễn Văn Cường đã viết cuốn Lí luận dạy học hiện đại – Một số vấn
đề về đổi mới PPDH. Cuốn sách đã đưa ra quan niệm dạy học nhóm là một hình
thức xã hội của dạy học, trong đó HS của một lớp học được chia thành các nhiệm
vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm,
sau đó được trình bày và đánh giá trước cả lớp [9,54].
Ở Pháp, những nghiên cứu về TCHĐN cũng rất được chú trọng. Roger
Cousinet (1881 – 1973), một GV và là nhà tiên phong trong hệ thống GD tiến bộ ở
Pháp, đã có công lớn trong việc giúp TCHĐN phát triển. Ông đã xuất bản rất nhiều cuốn
sách quan trọng: Phương pháp của các nhóm học tập (1945), Đời sống xã hội của trẻ
(1950),… Cousinet, cho rằng hình thức tổ chức cho HS học tập tự do theo nhóm có ý
nghĩa lớn. Nó giúp tạo cho các em có khả năng hòa hợp với cộng đồng, có thói quen làm
việc không cần sự kiểm soát của GV, từ đó khắc phục được tình trạng lười suy nghĩ, biết
xấu hổ với bạn khi không tham gia hay không hết lòng với công việc.
Từ đóng góp quan trọng của R. Cousinet, các nhà GD thế giới đã tiếp tục
triển khai, áp dụng và tiếp tục nghiên cứu về cách tổ chức học tập này. Công trình
nghiên cứu của Peter Peterson ở Viện Đại học Iena là một ví dụ tiêu biểu. Peter
Peterson đã đưa ra kế hoạch hoạt động có hệ thống bao gồm các bài giảng của GV
và các hoạt động của HS theo nhóm. Các nhóm học tập được thành lập trước mỗi
bài học, trước một vấn đề quan trọng cần nghiên cứu và sẽ hỗ trợ cho nhau. Điều
này tạo nên sự hài hòa trong phối hợp công việc của toàn lớp [24, 95].
Nghiên cứu sâu về TCHĐN, tác giả Wilbert Mc Keachie đã dành toàn bộ chương
14 của cuốn sách Teaching Tips (những thủ thuật trong dạy học) để đề cập đến học tập
đồng đẳng, học tập phối hợp, học tập hợp tác. Tác giả đã chứng minh học tập nhóm là
một phương pháp học tập hiệu quả. Đồng thời, ông tuyên bố sử dụng phương pháp này
sẽ làm tăng động lực học tập và khả năng hiểu sâu của HS [83,137].
Trên cơ sở khẳng định vai trò của TCHĐN, Trung tâm GD dựa trên kinh
nghiệm (CEOGO), Đại học Công giáo Leuven, Bỉ, đã đưa ra một mô hình về
DHTN, trong đó có sự phân công vị trí của từng thành viên sẽ đảm nhận những vai
13
trò gì trong nhóm. Năm 1981, Johnson và đồng nghiệp đã xuất bản và đưa ra kết quả
phân tích mà họ thu được qua 122 nghiên cứu để kiểm tra kết quả ảnh hưởng của
phương pháp học theo nhóm với phương pháp học cạnh tranh hay học một mình về
thành tích học tập. Kết quả chỉ ra rằng, nhóm học tương tác có hiệu quả cao hơn (sự
khuyến khích học) nhóm làm việc mà các thành viên cạnh tranh hay làm việc một
mình. Kết quả này đúng với các môn học như (mỹ thuật, đọc, toán, khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội, tâm lí học, GD thể chất), cho tất cả các lứa tuổi, cấp học (tiểu
học, trung học, cao đẳng, đại học).
GS. Jan Terwell (Đại học Veije, Amsterdam), tiếp tục khẳng định tính ưu việt
của TCHĐN trong dạy học. Ở Hà Lan, Chính phủ đã tổ chức rất nhiều các mô hình thử
nghiệm về TCHĐN, sau khi có kết luận chính xác mới nhân rộng áp dụng vào trường
học. Cuộc thử nghiệm lần đầu tiên là dự án ID. Đây là một chương trình giảng dạy quy
mô lớn tại Viện Nghiên cứu và phát triển chương trình giảng dạy quốc gia (SLO). Quá
trình đánh giá được thực hiện bởi một đội ngũ các nhà nghiên cứu Trường Đại học
Utrecht và được gọi là dự án ID 12-16 với 763 HS [89,61]. Cuộc thử nghiệm đầu tiên
này là sự tiên phong cho hàng loạt nghiên cứu về sau. Cuộc thử nghiệm lần thứ hai là dự
án AGO. Mô hình AGO là mô hình cả lớp cho phép từng thành viên trong lớp khắc phục
khó khăn và bổ sung kiến thức trong nhóm nhỏ theo một nhiệm vụ hằng ngày [89,63].
Lấy kết quả của 2 nghiên cứu trước làm cơ sở, phân tích số liệu của cả hai nghiên cứu
trên, các nhà GD Hà Lan tiếp tục nghiên cứu thử nghiệm dự án thứ 3 và thứ 4, đào tạo
HS theo phương pháp giải quyết vấn đề trong nhóm hợp tác. Tiếp theo là dự án kết hợp
đào tạo kiến thức nhận thức và kiến thức xã hội. Kết luận cuối cùng của các nhà nghiên
cứu sau các cuộc thử nghiệm đó là: học hợp tác theo nhóm không phải là một phương
pháp tốt nhất mặc dù phương pháp này đã được áp dụng rộng rãi trong trường học. Tuy
nhiên, theo tác giả, phương pháp này chỉ tốt đối với các HS khá, giỏi nhưng lại gây bất
lợi cho HS yếu kém. Vì vậy khi tổ chức dạy học nhóm, GV phải rất chú ý đến cơ cấu tổ
chức nhóm như thế nào cho phù hợp để tất cả HS lĩnh hội kiến thức một cách tốt nhất.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, vị trí của Liên Xô trên trường quốc tế được nâng
cao vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, quân sự, ngoại giao,… trong đó có giáo dục.