Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tổ chức công tác kế toán trong các công ty chứng khoán Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
Tổ chức công tác kế toán trong các công ty chứng khoán
Việt Nam
Nguyễn Mạnh Thiều
Chuyên ngành: Kế toán
Mã số: 62.34.30.01
Họ và tên cán bộ hƣớng dẫn khoa học:
1- Hướng dẫn 1: GS.TS. Ngô Thế Chi
2- Hướng dẫn 2: TS. Tôn Tích Quý
2011
2
Chƣơng 1
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
VÀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của công ty chứng khoán
Nền kinh tế - xã hội không ngừng phát triển đặt ra nhu cầu về tích luỹ trong xã
hội không ngừng tăng lên và ngày càng quan trọng, phong phú và đa dạng. Trong xã hội
xuất hiện người cần vốn cho mục đích tiêu dùng hay đầu tư, đồng thời cũng có người
khác có vốn nhàn rỗi muốn đầu tư thu lợi nhuận (cho vay để lấy lãi, đầu tư khác,...). Ban
đầu, những người này thường trực tiếp tìm gặp nhau dựa trên quan hệ quen biết cá nhân
để giải quyết các nhu cầu về vốn. Tuy nhiên, phương cách này chỉ phù hợp với qui mô
nhỏ, khi cung và cầu vốn không ngừng tăng về qui mô và đa dạng về hình thức thì hình
thức vay và cho vay trực tiếp dựa trên quan hệ cá nhân sẽ không đáp ứng được nhu cầu
nữa, thực tế khách quan đòi hỏi phải có một thị trường để cung và cầu vốn gặp nhau,
đáp ứng các nhu cầu tài chính của nhau, thị trường đó chính là thị trường tài chính.
Trong lịch sử phát triển thị trường tài chính, thị trường tiền tệ được hình
thành trước do ban đầu nhu cầu vốn cũng như tiết kiệm trong dân cư chưa cao và
nhu cầu về vốn chủ yếu là vay ngắn hạn. Sau đó, cùng với sự phát triển của nền
kinh tế, sự phát triển của các hoạt động sản xuất kinh doanh dẫn đến nhu cầu về vốn
dài hạn cho đầu tư phát triển ngày càng cao và thị trường vốn ra đời để đáp ứng nhu
cầu vốn dài hạn của nền kinh tế. Để huy động được các nguồn vốn dài hạn, bên
cạnh việc đi vay ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp, Chính phủ và
một số công ty còn thực hiện huy động thông qua phát hành các loại chứng khoán.
Khi các chứng khoán có giá được phát hành thì tất yếu sẽ nảy sinh nhu cầu về mua,
bán, trao đổi. Chính vì vậy, TTCK ra đời với tư cách là một bộ phận của thị trường
vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua, bán, trao đổi các loại chứng khoán đó. Cũng như
các thị trường khác, lúc đầu những người mua và người bán chứng khoán là các cá
nhân sở hữu chứng khoán; họ tiến hành mua, bán trực tiếp với nhau không qua một
bên trung gian nào. Khi thị trường càng phát triển, khối lượng vốn luân chuyển
ngày càng lớn; những người mua, bán chứng khoán đông đảo hơn và mỗi cá nhân
3
tham gia sở hữu khối lượng chứng khoán lớn, đa dạng với mỗi lần thanh toán có
lượng tiền rất lớn. Vì vậy, cần thiết phải có những người trung gian giúp họ thực
hiện mua, bán chứng khoán được thuận lợi và an toàn - những người này là những
nhà môi giới mua bán chứng khoán giữa người cần mua và người cần bán. Tuy
nhiên, thời kỳ sơ khai thì những nhà môi giới chứng khoán hoạt động đơn lẻ chưa
có tổ chức rõ nét về môi giới chứng khoán, chưa có những đảm bảo tin cậy đối
với người mua bán chứng khoán; do đó, để nâng cao tính chuyên nghiệp, độ uy
tín, độ tin cậy về sự an toàn của các nhà đầu tư trong vai trò trung gian - những
nhà môi giới tổ chức thành lập các công ty gọi là công ty môi giới chứng khoán.
Ở giai đoạn TTCK mới hoạt động, các nhà đầu tư chủ yếu là những người
mua bán chứng khoán đơn lẻ bằng nguồn vốn nhàn rỗi để hưởng chênh lệch giá.
Khi TTCK ổn định và phát triển, nhà đầu tư tham gia KDCK ngày càng đông
đảo; phong phú về hình thức, đa dạng về chủng loại chứng khoán và có sự cạnh
tranh mạnh mẽ thì họ cũng thành lập ra các công ty kinh doanh chứng khoán.
Trong quá trình hoạt động, các công ty môi giới chứng khoán và công ty
KDCK không chỉ dừng lại ở hoạt động ban đầu mà có sự đan xen và phát triển các
nghiệp vụ khác trên TTCK như nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, tư vấn tài chính và
đầu tư chứng khoán; do đó, một loại hình công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng
khoán xuất hiện đó chính là CTCK - một tổ chức tài chính trung gian được thành
lập theo pháp luật và thực hiện một hoặc một số hoạt động KDCK trên TTCK.
Quá trình phát triển của CTCK trên thế giới có thể nói bắt đầu từ những năm
cuối thế kỷ 17 sang đến thế kỷ 18, 19 trong bối cảnh phát triển nở rộ các công ty cổ
phần ở các nước tư bản chủ nghĩa Châu Âu đã dẫn đến nhu cầu phát hành ồ ạt các
loại cổ phiếu của các công ty cổ phần. Khi đó, các công ty cổ phần đều phát hành cổ
phiếu qua các CTCK hoặc Ngân hàng đầu tư để bán cho các nhà buôn, các nhà
đầu tư KDCK. Như vậy, các CTCK đảm nhận việc phân phối chứng khoán của
các công ty cổ phần và thực hiện cung cấp các dịch vụ liên quan tới phát hành
chứng khoán, từ đó hình thành nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Đến thế kỷ 20 chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn lũng đoạn ở Châu Âu, Mỹ và sau đó là Châu Á. Trong giai đoạn
này, các CTCK phát triển mạnh cả về qui mô và chất lượng dịch vụ; phát triển
cả số lượng nghiệp vụ kinh doanh và tính chuyên nghiệp cao trong hoạt động
kinh doanh; qua đó thu hút được đông đảo các nhà đầu tư tham gia KDCK.
4
Ở mỗi quốc gia, TTCK và CTCK được hình thành và phát triển với những mức
độ khác nhau, nhưng với xu hướng toàn cầu hoá và quốc tế hoá nền kinh tế thì TTCK
phát triển không chỉ giới hạn phạm vi trong nước mà đã có sự liên kết, kết nối giữa các
TTCK khu vực cũng như trên thế giới. Điều đó dẫn đến hoạt động kinh doanh của các
CTCK cũng có điều kiện mở rộng và phát triển ra phạm vi quốc tế. Các CTCK đẩy
mạnh thành lập các chi nhánh ở nước ngoài nhằm tăng cường hoạt động kinh doanh,
tăng doanh thu mua bán chứng khoán cũng như các dịch vụ khác. Tuy nhiên, nhằm
hạn chế sự thôn tính cũng như bảo hộ cho các CTCK trong nước các quốc gia đều qui
định thời hạn và điều kiện để CTCK nước ngoài được hoạt động trên TTCK nước
mình như Hàn Quốc đến năm 1991 CTCK nước ngoài được phép mở chi nhánh, thành
lập liên doanh hoạt động trên TTCK; Nhật Bản thì những năm 1985 đã thực hiện tự do
hoá quốc tế và các CTCK nước ngoài được phép tham gia vào TTCK của Nhật.
Hiện nay, những năm đầu của thế kỷ 21 cùng với sự phát triển kinh tế tri thức
theo xu hướng quốc tế hoá và ở đó không chỉ các nền kinh tế thị trường phát triển mà
còn cả các nền kinh tế đang phát triển đã phát triển rộng rãi các thị trường vốn, thị
trường tiền tệ và TTCK nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Cùng với nó
số lượng các CTCK ngày càng nhiều, phạm vi và tính chất hoạt động của CTCK ngày
càng mở rộng, phát triển đa dạng, đa năng, tính cạnh tranh cao và tất yếu sẽ dẫn đến
tình trạng phá sản hoặc hợp nhất hoặc sáp nhập hoặc chia tách. Do đó, nhằm đảm bảo
tính an toàn đối với TTCK; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư; đảm bảo tính
công bằng, khách quan trong hoạt động KDCK giữa các CTCK mỗi nước phải qui
định trong Luật Chứng khoán về các điều kiện pháp lý; điều kiện kinh tế; qui định
các cơ quan chuyên ngành thanh tra, giám sát và quản lý chặt chẽ các CTCK.
Như vậy, có thể đánh giá sự ra đời của CTCK là tất yếu khách quan của sự
phát triển kinh tế thị trường cùng với sự hình thành và phát triển của TTCK. Quá
trình phát triển của CTCK phù hợp với sự phát triển, chuyển đổi của nền kinh tế
trong từng giai đoạn của từng nước, từng khu vực và trên toàn thế giới; nhưng
CTCK luôn giữ vai trò là nhân tố quan trọng, trung tâm thực hiện các nghiệp vụ về
KDCK; làm trung gian trong giao dịch thông qua SGDCK, nhằm dẫn vốn từ người
có vốn nhàn rỗi đến người cần vốn cho đầu tư phát triển, góp phần ổn định và phát
triển TTCK; thúc đẩy nền kinh tế mỗi nước phát triển và tăng trưởng bền vững.
5
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của công ty chứng khoán
Trong nền kinh tế thị trường sự hình thành và phát triển của TTCK và CTCK
là tất yếu khách quan, song để hiểu được bản chất CTCK là cái gì? Như thế nào? Có
nhiều quan điểm đánh giá, nhận xét đứng trên những giác độ khác nhau để xem
xét và vì vậy khái niệm về CTCK có thể tiếp cận với những góc độ khác nhau.
Theo giáo trình TTCK, trường Đại học KTQD thì "CTCK là một định chế tài
chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán" [38].
Theo giáo trình TTCK, trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
thì "CTCK là một định chế tài chính trung gian chuyên kinh doanh chứng khoán
là đơn vị có tư cách pháp nhân, có vốn riêng và hạch toán độc lập" [49].
Theo quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13/10/1998 của UBCKNN thì "CTCK
là công ty cổ phần hoặc công ty TNHH thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được UBCKNN
cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số các loại hình kinh doanh chứng khoán" [50].
Theo quyết định số 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/04/2007 của Bộ trưởng BTC
thì "CTCK là tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh chứng khoán,
bao gồm một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động: môi giới chứng khoán, tự doanh
chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán" [8].
Theo giáo trình kinh doanh chứng khoán, Học viện Tài chính thì "CTCK là
tổ chức hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán thông qua việc thực
hiện một hoặc vài dịch vụ chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận"[36].
Theo giáo trình TTCK, Học viện Tài chính thì "CTCK là một loại hình
định chế trung gian đặc biệt trên thị trường chứng khoán, thực hiện các hoạt
động kinh doanh chứng khoán như ngành nghề kinh doanh chính" [34].
Như vậy, CTCK là một tổ chức tài chính trung gian được thành lập theo pháp luật;
thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động trên TTCK. Một cách khái quát có thể
hiểu CTCK là một loại hình doanh nghiệp tài chính hoạt động kinh doanh trên TTCK
theo qui định của pháp luật. CTCK hoạt động kinh doanh trên TTCK - một thị trường rất
nhạy cảm, có nhiều rủi ro và sức ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Vì vậy, CTCK thuộc
loại hình kinh doanh có điều kiện và đây chính là những điểm khác biệt giữa hoạt
động của CTCK với hoạt động của các loại hình doanh nghiệp khác, cụ thể như sau:
6
Một là, đặc điểm về vốn. CTCK được thành lập phải đáp ứng điều kiện về mức
vốn pháp định theo qui định, đây là đặc điểm khác với các công ty hoạt động trong các
lĩnh vực sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ thông thường. Ở mỗi quốc gia có qui
định về mức vốn pháp định khác nhau, có thể qui định chung cho một CTCK khi đăng
ký thành lập không kể công ty thực hiện một hay hai hay tất cả các nghiệp vụ kinh
doanh theo qui định của pháp luật. Hàn Quốc qui định mức vốn tối thiểu của một
CTCK là 50 tỷ Won; hoặc có thể qui định mức vốn pháp định cho từng loại nghiệp vụ
kinh doanh cụ thể như ở Việt Nam theo Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày
29/06/2006 của Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mức vốn pháp
định cho các nghiệp vụ kinh doanh của CTCK, CTCK có vốn đầu tư nước ngoài, chi
nhánh CTCK nước ngoài tại Việt Nam là: Môi giới chứng khoán 25 tỷ đồng Việt Nam;
Tự doanh chứng khoán 100 tỷ đồng Việt Nam; Bảo lãnh phát hành chứng khoán
165 tỷ đồng Việt Nam; Tư vấn đầu tư chứng khoán 10 tỷ đồng Việt Nam [40].
Đây là đặc điểm quan trọng nhất quyết định CTCK được phép hoạt động hoặc
được thực hiện nghiệp vụ kinh doanh nào, đồng thời cũng nhằm đảm bảo mục tiêu bảo vệ
quyền lợi của các nhà đầu tư trên TTCK. Ngoài ra, đặc điểm về vốn còn ảnh hưởng đến
công tác quản lý chung và tổ chức hạch toán kế toán trong việc tổ chức huy động, quản
lý và sử dụng vốn, đảm bảo hoạt động của CTCK phù hợp với qui định của pháp luật.
Hai là, đặc điểm về nhân sự và đội ngũ lãnh đạo. CTCK hoạt động trong
lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, có độ rủi ro cao, có mức độ ảnh hưởng lớn tới đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước nên đòi hỏi nhân viên CTCK phải có trình độ từ
đại học trở lên về chuyên ngành ngân hàng, tài chính, kế toán, TTCK và có tư cách
đạo đức nghề nghiệp tốt, có chứng chỉ hành nghề do cơ quan có thẩm quyền cấp.
Đối với đội ngũ Lãnh đạo các bộ phận cần kiến thức chuyên môn sâu, có trình độ
quản lý, đạo đức nghề nghiệp; đặc biệt với Lãnh đạo CTCK cần phải có tầm nhìn
chiến lược, chứng chỉ hành nghề và giấy phép đại diện do cơ quan có thẩm quyền
cấp; có trình độ học vấn và kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh cao. Đặc điểm
này có tích chất quyết định đến chất lượng hoạt động kinh doanh, quyết định đến uy
tín và danh tiếng của CTCK trên TTCK và trong đời sống kinh tế xã hội. Đặc điểm
này ảnh hưởng sâu sắc đến tổ chức bộ máy của CTCK, nhất là tổ chức bộ máy kế
toán trong việc tổ chức tuyển dụng, lựa chọn và bố trí nhân viên kế toán vào các vị
trí trong bộ máy kế toán; trong từng hoạt động nghiệp vụ kinh doanh nhằm đảm bảo
hiệu quả của công tác quản lý cũng như công tác hạch toán kế toán trong CTCK.
7
Ba là, đặc điểm về cơ sở vật chất. Mọi doanh nghiệp khi thành lập và tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải có những cơ sở vật chất nhất định,
tuy nhiên đối với CTCK phải đáp ứng yêu cầu về cơ sở vật chất nghiêm ngặt phù
hợp với nghiệp vụ KDCK. Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động KDCK, cơ sở vật
chất của CTCK cần phải có như: Sàn giao dịch (Phòng giao dịch), đảm bảo thuận
tiện cho các nhà đầu tư thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán, thuận lợi để tra
cứu tiếp nhận thông tin TTCK và các thông tin cần thiết khác. CTCK phải trang bị
hệ thống thiết bị công nghệ hiện đại đáp ứng nhu cầu truyền lệnh của nhà đầu tư,
thông báo kết quả giao dịch kịp thời, nhà đầu tư thuận lợi kiểm tra giám sát số dư và
sự biến động của tài khoản,...; đảm bảo an toàn tuyệt đối lượng chứng khoán nắm
giữ của các nhà đầu tư. Đặc điểm này không những đảm bảo điều kiện để các nhà
đầu tư thu thập thông tin, thực hiện đầu tư mà còn thể hiện bề thế, qui mô của
CTCK; niềm tin của khách hàng khi đến thực hiện đầu tư. Về mặt quản lý và tổ
chức thì đặc điểm này có ảnh hưởng đáng kể đến tổ chức kế toán của CTCK từ khâu
bắt đầu hình thành cơ sở vật chất như giá thành hoặc chi phí để có những cơ sở vật
chất đó; quản lý, sử dụng và phân bổ từng kỳ vào chi phí kinh doanh để xác định
hiệu quả sử dụng và kết quả kinh doanh từng loại nghiệp vụ kinh doanh của công ty.
Bốn là, đặc điểm về xung đột lợi ích giữa nhà đầu tư và CTCK. Các doanh
nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ bao giờ cũng
có mối liên hệ với khách hàng và lợi ích của khách hàng gắn liền với lợi ích của
doanh nghiệp mà không xảy ra mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích. Tuy nhiên, đối
với CTCK khi thực hiện nghiệp vụ kinh doanh, cung cấp các dịch vụ cho khách
hàng hay các nhà đầu tư có thể xảy ra mâu thuẫn về lợi ích nếu CTCK không thực
hiện nghiêm ngặt các qui định về qui trình, nguyên tắc, đạo đức nghề nghiệp.
Những nghiệp vụ kinh doanh thường xảy ra xung đột lợi ích giữa CTCK với các
nhà đầu tư là nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán và tư vấn
đầu tư chứng khoán; vì vậy, đặc điểm về xung đột lợi ích tạo ra sự khác biệt
trong hoạt động kinh doanh của CTCK với các loại hoạt động kinh doanh khác.
Đây là đặc điểm đặc thù hoạt động kinh doanh của CTCK nhất là trong điều
kiện TTCK mới đi vào hoạt động, sự hiểu biết về lĩnh vực KDCK của nhà đầu tư
còn hạn chế, sự quản lý của các nhà quản trị CTCK còn lỏng lẻo, các định chế qui
định về nguyên tắc, đạo đức nghề nghiệp còn chưa được tôn trọng thì đặc điểm này
8
càng phải được đề cao nhằm hạn chế xảy ra xung đột lợi ích giữa CTCK với khách
hàng, các nhà đầu tư. CTCK cần phải thật khách quan, đạt kỳ vọng tuyển chọn được
những nhân viên có năng lực, tính chủ động sáng tạo, có đạo đức nghề nghiệp tốt;
có trình độ chuyên môn và quản lý phù hợp; công ty phải xây dựng và thực hiện
kiểm soát nội bộ chặt chẽ và phải qui trách nhiệm cá nhân trong xử lý nghiệp vụ
chuyên môn, quản lý. Đây là những vấn đề rất phức tạp, tổng hợp nhiều mặt của đời
sống kinh tế, xã hội, đạo đức, nghề nghiệp, uy tín, trách nhiệm, nghĩa vụ và nhiều
nhân tố khác liên quan đến con người và lợi ích (công ty và cá nhân); do đó, chìa
khoá là ở người Lãnh đạo công ty. Riêng về tổ chức công tác kế toán của CTCK thì
đặc điểm này có ảnh hưởng đến toàn bộ các nội dung của tổ chức công tác kế toán,
bởi vì để hạn chế xảy ra xung đột về lợi ích giữa các nhà đầu tư với CTCK hoặc với
các nhà đầu tư khác thì từ nội dung tổ chức hệ thống chứng từ; tổ chức các tài
khoản phản ánh tài sản của nhà đầu tư và của công ty; tổ chức hệ thống sổ kế toán
chi tiết; tổ chức các báo cáo kế toán; tổ chức bộ phận nhân viên kế toán thực hiện
đến tổ chức công tác kiểm tra kế toán đều phải được tổ chức chặt chẽ, riêng biệt và
rõ ràng. Trong từng nội dung của tổ chức công tác kế toán đều phải ghi chép, phản
ánh, tổng hợp một cách riêng biệt về tài sản và chứng khoán của từng nhà đầu tư và
của CTCK; phải thường xuyên có sự kiểm tra chéo giữa các bộ phận liên quan đến
hoạt động kinh doanh và công tác bảo mật giữa các bộ phận phải an toàn tuyệt đối.
1.1.3. Mô hình và vai trò của công ty chứng khoán
1.1.3.1. Mô hình công ty chứng khoán
Các tổ chức, cá nhân để được cấp giấy chứng nhận KDCK phải lập và nộp
đầy đủ hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận KDCK theo qui định của pháp luật.
UBCKNN xem xét, kiểm tra hồ sơ và cấp giấy phép KDCK trong thời hạn 30 ngày
kể từ ngày có đủ hồ sơ hợp lệ và công ty phải hoàn tất việc nộp lệ phí cấp giấy phép
kinh doanh theo qui định tại Điều 65 của Luật Chứng khoán [40]. Khi được cấp
giấy phép KDCK công ty phải tiến hành công khai hóa hoạt động thông qua
việc công bố thành lập trên phương tiện thông tin của UBCKNN và các phương
tiện thông tin đại chúng theo qui định Điều 66 của Luật Chứng khoán [40].
CTCK hoạt động và thực hiện các nghiệp vụ về KDCK với tính chất đa
dạng, phong phú và phức tạp; nó đồng thời liên quan đến lợi ích của công ty, nhà
đầu tư và nhà nước. Vì vậy, KDCK là nghề kinh doanh đặc biệt có phạm vi rộng và
9
mức độ ảnh hưởng đến toàn xã hội; có rủi ro kinh doanh cao. Do vậy, pháp luật các
quốc gia đều qui định rất chặt chẽ về mô hình hoạt động của CTCK tuỳ thuộc
vào điều kiện của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, trên thế giới tồn tại phổ biến ba mô
hình về CTCK căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và chủ sở hữu chi phối CTCK.
* Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh
CTCK chuyên doanh là những công ty độc lập được thành lập theo qui
định của pháp luật, chuyên môn hoá trong lĩnh vực KDCK. Công ty đảm nhiệm
một, một số hoặc toàn bộ các nghiệp vụ KDCK trên TTCK. Về nguồn tài chính
của các công ty theo mô hình này chủ yếu do chủ sở hữu đóng góp như: Phát
hành cổ phiếu, trái phiếu; vốn góp của các thành viên tham gia thành lập công
ty,… Ngoài ra, công ty còn huy động từ nguồn vốn vay ngân hàng và các tổ chức,
nguồn vốn liên doanh; liên kết,… Mô hình này được áp dụng ở nhiều các nước như:
Mỹ, Nhật bản, Hàn Quốc, Việt Nam,… và có những ưu, nhược điểm cơ bản sau:
Một là: Tự chủ trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.
CTCK chuyên doanh hoàn toàn độc lập hoạt động mà không cơ quan chủ
quản nào chi phối cả về tổ chức nhân sự cũng như chiến lược hoạt động kinh doanh.
Từ đó phát huy được khả năng chủ động, sáng tạo, nhạy bén trong kinh doanh và tổ
chức kinh doanh linh hoạt phù hợp với hoạt động của TTCK, nền kinh tế thị trường.
Hai là: Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tổ chức tài chính.
CTCK chuyên doanh được thành lập theo qui định của pháp luật và hoạt động
độc lập trên cơ sở vốn của công ty để thực thi các nghiệp vụ KDCK. Các ngân hàng,
tổ chức tài chính không bị chi phối vốn vào lĩnh vực KDCK (đặc biệt là hệ thống
ngân hàng) mà chỉ tham gia thị trường với tư cách là khách hàng. Do đó, hạn chế đầu
tư của ngân hàng, tổ chức tài chính vào lĩnh vực chứng khoán có rủi ro, đồng thời
giảm được rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tổ chức tài chính trong nền kinh tế.
Ba là: Hạn chế đầu tư vốn nhà nước vào KDCK của các Tổng công ty.
Các Tổng công ty nhà nước, Tập đoàn giữ vai trò quan trọng trong điều hành
kinh tế vĩ mô của Nhà nước như: Điều tiết nền kinh tế, bình ổn giá cả,… CTCK
chuyên doanh không thuộc Tổng công ty, Tập đoàn nhà nước; vốn kinh doanh chủ
yếu là của công ty mẹ, do đó hạn chế có sự chuyển đổi mục đích cũng như sử dụng
vốn nhà nước để KDCK, tạo nên sự tách bạch trong quản lý kinh tế tài chính.
10
Bốn là: Hạn chế tính san bằng rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng và các
Tổng công ty, Tập đoàn.
Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại, Tổng công ty, Tập đoàn nhà
nước chỉ thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh theo qui định của pháp luật và
tham gia TTCK với tư cách là khách hàng mà không đầu tư vốn vào KDCK qua
các CTCK thuộc đơn vị quản lý; do đó, khi hoạt động kinh doanh chính bị rủi ro
thua lỗ thì không có sự chi phối bù đắp lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh doanh.
Năm là: Hạn chế về vốn, công nghệ, cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn và
mạng lưới khách hàng.
Trong giai đoạn đầu hoạt động, các công ty này sử dụng chủ yếu là vốn của
bản thân những chủ sở hữu đóng góp mà không có đơn vị chủ quản nào cấp, do đó
về một mặt nào đó sẽ hạn chế về vốn kinh doanh. Từ đó dẫn đến việc đầu tư cho
công nghệ hiện đại, cơ sở vật chất trong tác nghiệp các nghiệp vụ cũng gặp nhiều
khó khăn hơn những công ty có chủ quản là các ngân hàng, Tổng công ty nhà nước.
Về chuyên môn, lĩnh vực KDCK là rất nhạy cảm và phức tạp đòi hỏi cán bộ
phải có trình độ cao, có đạo đức tốt để đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư. Các
CTCK chuyên doanh phải tuyển mới nhân viên, chưa sẵn có cán bộ trình độ cao,
nhiều kinh nghiệm; do đó, trong giai đoạn đầu hoạt động cán bộ nhân viên của những
công ty này còn hạn chế nhất định về trình độ chuyên môn cũng như trình độ quản lý.
Về mạng lưới khách hàng, các CTCK chuyên doanh mới được thành lập và
chưa có danh tiếng, chưa có mạng lưới khách hàng như các công ty được hình thành từ
các ngân hàng và Tổng công ty lớn. Những công ty này phải xây dựng mạng lưới
khách hàng ngay từ những khách hàng đầu tiên, do đó cần phải có chiến lược quảng
cáo thu hút khách hàng cũng như thực hiện công tác quản trị công ty tốt để tăng cường
uy tín bằng chất lượng phục vụ trong quá trình thực thi các nghiệp vụ về KDCK.
* Mô hình công ty chứng khoán đa năng một phần
CTCK đa năng được thành lập theo qui định của pháp luật và hoạt động
KDCK độc lập với hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường đã được thừa
nhận - Đó là CTCK đa năng một phần. TTCK ra đời và ngày càng phát triển tạo
môi trường thuận lợi để thực hiện các nghiệp vụ KDCK. Khi đó các ngân hàng,
tổ chức tài chính, doanh nghiệp lớn muốn KDCK phải thành lập công ty con có
11
tư cách pháp nhân để hoạt động trong lĩnh vực này. Các công ty con được thành
lập chuyên thực hiện các nghiệp vụ KDCK và vẫn chịu sự chi phối của công ty
mẹ (các ngân hàng thương mại hoặc các tập đoàn, Tổng công ty); đồng thời được
đầu tư ban đầu khá đầy đủ về vốn, tài sản hoạt động, nguồn nhân lực và địa bàn
hoạt động kể cả những khách hàng có quan hệ thường xuyên trong kinh doanh để
thực hiện các nghiệp vụ KDCK. Mô hình này có những ưu, nhược điểm sau:
Một là, hoạt động kinh doanh độc lập với công ty mẹ.
CTCK được thành lập theo qui định của pháp luật, có tư cách pháp nhân
riêng và hoạt động kinh doanh, hạch toán độc lập tương đối với công ty mẹ,
đồng thời phải chịu trách nhiệm bằng vốn chủ sở hữu của công ty. Vì vậy, kết
quả hoạt động của CTCK không ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của công ty
mẹ và cũng không gây ra rủi ro cho hoạt động kinh doanh của công ty mẹ.
Hai là, điều kiện về vốn, công nghệ và khách hàng.
CTCK đa năng một phần tuy hoạt động kinh doanh, hạch toán độc lập với
công ty mẹ nhưng vẫn chịu sự chi phối nhất định của công ty mẹ về nhân sự,
chiến lược kinh doanh, đầu tư và phân phối. Tuy nhiên, những công ty này được
tạo điều kiện về vốn đầu tư, công nghệ tác nghiệp và mạng lưới khách hàng từ
công ty mẹ nên có nhiều điều kiện thuận lợi hơn đối với CTCK chuyên doanh.
Ba là, quyền huy động vốn.
CTCK đa năng một phần không có quyền huy động vốn để kinh doanh,
không tham gia hoạt động tín dụng mà phụ thuộc vào công ty mẹ. Do vậy, tuy độc
lập trong hoạt động kinh doanh nhưng việc mở rộng qui mô về vốn cũng như lĩnh
vực đầu tư kinh doanh còn phải lệ thuộc vào công ty mẹ là các ngân hàng thương
mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm hoặc Tổng công ty thành lập, chủ quản.
Bốn là, mô hình này thường có qui mô nhỏ, bị lệ thuộc về vốn, nhân sự từ
công ty mẹ. Người lãnh đạo của công ty như Chủ tịch hội đồng quản trị, Giám đốc,
Tổng giám đốc hoặc các vị trí quan trọng khác thường là người của công ty mẹ
quản lý cho nên càng bị lệ thuộc vào chiến lược kinh doanh chung của công ty mẹ.
* Công ty chứng khoán đa năng toàn phần
TTCK phát triển mạnh ở Mỹ và Châu Âu thế kỷ 18, 19 do sự phát triển rầm
rộ của các công ty cổ phần dẫn tới cổ phiếu các công ty được phát hành ồ ạt tạo điều
12
kiện cho các nghiệp vụ KDCK phát triển. Các ngân hàng, tổ chức tài chính, các
Tổng công ty được phép vừa sản xuất kinh doanh thông thường vừa thực hiện
nghiệp vụ KDCK. Mô hình này không tách biệt về mặt pháp lý đối với lĩnh vực
KDCK và kinh doanh tiền tệ; tính kết hợp đa năng về nghiệp vụ rất cao; giảm bớt
được rủi ro trong hoạt động kinh doanh; có khả năng chịu được những biến động
lớn của thị trường, ổn định sản xuất kinh doanh. Mô hình này được áp dụng nhiều ở
các nước: Anh, Canada, Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ,… và có những ưu, nhược điểm sau:
Một là, kết hợp đa năng rất cao trong kinh doanh.
Mô hình CTCK đa năng toàn phần là sự kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh
của các Ngân hàng Thương mại, Tổng công ty và chủ yếu là hoạt động kinh doanh
tiền tệ (huy động tiền gửi, cho vay, thanh toán,…), kinh doanh bảo hiểm và KDCK,
do đó sẽ giảm bớt được các chi phí quản lý cho hoạt động kinh doanh chung và có khả
năng gánh chịu những sự biến động lớn của thị trường nói chung và TTCK nói riêng.
Hai là, đảm bảo về vốn và trình độ chuyên môn.
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ và nguyên tắc kinh doanh không tách biệt
về mặt pháp lý, cho nên các CTCK đa năng toàn phần sử dụng ngay các nhà quản
trị trong Hội đồng quản trị, Ban điều hành và nhân viên đã có nhiều kinh nghiệm về
quản lý kinh doanh tiền tệ, bảo hiểm, đầu tư trong hoạt động KDCK. Mặt khác, vốn
và cơ sở vật chất của công ty cũng được ưu tiên đầu tư đầy đủ để kinh doanh, dự trữ
chứng khoán, điều đó làm tăng khả năng sinh lợi cho hoạt động kinh doanh chung.
Ba là, rủi ro trong kinh doanh và quyền tự chủ.
Cũng từ nguyên tắc kinh doanh không tách biệt, nếu hoạt động KDCK gặp
rủi ro sẽ có thể dẫn đến rủi ro lớn cho các ngân hàng, tổ chức tài chính đặc biệt khi
hoạt động kinh doanh đầu tư lớn vào KDCK. Hơn nữa, công ty không được tự
quyết định đầu tư và chiến lược kinh doanh mà phụ thuộc vào khuynh hướng kinh
doanh của Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị có khuynh hướng đầu tư KDCK là
chiến lược thì hoạt động KDCK được mở rộng và cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro trong
kinh doanh. Ngược lại, nếu khuynh hướng Hội đồng quản trị nghiêng về kinh
doanh tiền tệ, bảo hiểm,… là chiến lược thì hoạt động KDCK giảm đi và như vậy
có thể sẽ không đạt được mục tiêu phát triển TTCK xét trên toàn bộ nền kinh tế.
Bốn là, quản trị doanh nghiệp và kiểm soát nội bộ.
13
Xuất phát từ nguyên tắc không tách bạch giữa nghiệp vụ KDCK với nghiệp vụ
kinh doanh tiền tệ, kinh doanh bảo hiểm,… dẫn đến công tác quản lý kinh doanh và
quản trị doanh nghiệp rất phức tạp. Điều này có thể dẫn đến tình trạng không kiểm
soát được mọi lĩnh vực kinh doanh, các bộ phận thiếu sự phối kết hợp trong quá trình
hoạt động, các nhân viên có thể lợi dụng trục lợi hoặc kinh doanh sai lệch chiến lược
chung mà các nhà quản trị điều hành không kịp thời phát hiện và chấn chỉnh.
Tóm lại, CTCK là một loại hình định chế tài chính đặc biệt và việc xác
định mô hình CTCK phù hợp với hệ thống tài chính, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà
nước trong lĩnh vực KDCK là rất cần thiết. Tuy nhiên, mỗi một mô hình CTCK
được áp dụng đều có những ưu nhược điểm nhất định và phù hợp với những giai
đoạn phát triển khác nhau của TTCK nói riêng và nền kinh tế đất nước nói chung.
1.1.3.2. Vai trò của công ty chứng khoán
CTCK là trung gian và tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế và TTCK nói riêng; nó là cầu nối giữa những người có vốn nhàn rỗi và
những chủ thể cần vốn sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Bằng các loại
nghiệp vụ kinh doanh trên TTCK, các CTCK đã thể hiện vai trò quan trọng đối
với sự phát triển của TTCK và các chủ thể tham gia trên TTCK, cụ thể như sau:
Một là, CTCK tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế
CTCK là một trong những tổ chức tài chính trung gian với vai trò huy động
vốn cho nền kinh tế, nhờ đó mà chứng khoán của các tổ chức phát hành đến được
với các nhà đầu tư và được lưu thông trên thị trường; qua đó một lượng lớn vốn
được huy động từ những nguồn vốn nhàn rỗi đưa vào đầu tư phát triển nền kinh tế.
Có thể thấy TTCK là nơi "chạy tiếp sức cho vốn" nhằm tập hợp vốn nhỏ lẻ nhàn
rỗi thành lượng vốn lớn cho đầu tư phát triển sản xuất; tập hợp các nguồn vốn có
thời gian nhàn rỗi khác nhau (ngắn hạn, dài hạn) thành nguồn vốn dài hạn cho đầu
tư phát triển. Các CTCK thực hiện những nghiệp vụ kinh doanh trên TTCK, kinh
nghiệm nghề nghiệp sẽ giúp cho các tổ chức phát hành chứng khoán thành công,
đáp ứng nhu cầu huy động vốn, nhu cầu sử dụng vốn, tiết kiệm thời gian, tiết
kiệm chi phí, từ đó mà góp phần làm tăng lượng cung chứng khoán trên TTCK.
Hai là, CTCK cung cấp cơ chế giá và bình ổn giá cả chứng khoán trên TTCK
CTCK bằng các nghiệp vụ kinh doanh giúp các nhà đầu tư đánh giá đúng và
chính xác giá trị các khoản đầu tư của mình. Toàn bộ các lệnh mua bán chứng
14
khoán của nhà đầu tư được tập hợp tại SGDCK thông qua các CTCK; trên cơ sở đó,
giá chứng khoán sẽ được xác định theo qui luật cung cầu. Hơn nữa, thông qua hoạt
động tự doanh và các yêu cầu qui định của pháp luật hoặc của Nhà nước, các CTCK
có chức năng quan trọng là có thể can thiệp vào TTCK góp phần điều tiết giá chứng
khoán, tạo nên sự ổn định giá chứng khoán và góp phần tạo lập thị trường cho
những chứng khoán mới phát hành. Khi CTCK thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát
hành chứng khoán thì đã thực hiện vai trò tạo cơ chế giá chứng khoán hợp lý đối
với các chứng khoán trong đợt phát hành. Thông thường mức giá chứng khoán phát
hành thường do các CTCK xác định trên cơ sở tiếp xúc, tìm hiểu, thoả thuận với
các nhà đầu tư tiềm năng trong đợt phát hành đó và tư vấn cho tổ chức phát hành.
Ba là, CTCK tạo điều kiện chuyển từ chứng khoán thành tiền và ngược lại
Mong muốn của các nhà đầu tư là có được khả năng chuyển số vốn tạm thời
nhàn rỗi thành chứng khoán hoặc ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn định,
công bằng và minh bạch. Trên TTCK nhờ hoạt động của các CTCK mà các nhà đầu
tư có thể hàng ngày chuyển nhanh chóng các khoản tiền nhàn rỗi thành chứng
khoán và ngược lại, điều này có ý nghĩa rất quan trọng vì các nhà đầu tư có thể mua
hoặc bán các loại chứng khoán với giá tốt nhất ở mỗi phiên giao dịch trên TTCK.
Bốn là, CTCK góp phần tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới trên TTCK
Trong khi thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, CTCK có thể nắm bắt
được nhu cầu của khách hàng và phản ánh với các doanh nghiệp, các tổ chức phát
hành chứng khoán nghiên cứu và phát triển sản phẩm, dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu
của khách hàng. Kết quả của quá trình này tạo ra sự đa dạng của các sản phẩm, dịch
vụ; đa dạng hoá được cơ cấu khách hàng và với phí dịch vụ thấp sẽ ngày càng huy
động được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội phục vụ cho đầu tư phát triển.
Năm là, CTCK góp phần giảm chi phí giao dịch, giảm rủi ro và nâng cao
hiệu quả đầu tư cho các nhà đầu tư
Hàng hoá trên TTCK là những hàng hoá đặc biệt, những sản phẩm tài chính
bậc cao nên để thẩm định chất lượng và xác định giá của chúng thường phải chi phí
lớn trong việc thu thập, xử lý thông tin, đào tạo nhân viên, kỹ năng phân tích và
thực hiện qui trình giao dịch trên thị trường tập trung. Những khoản chi phí này
được các CTCK trang trải do tính chuyên nghiệp hoạt động và qui mô đủ lớn; qua
đó CTCK giúp các nhà đầu tư tiết kiệm chi phí trong từng giao dịch cũng như trong
15
tổng thể thị trường, giúp nâng cao qui mô giao dịch và góp phần nâng cao tính
thanh khoản của chứng khoán. Đồng thời, CTCK cũng giúp các nhà đầu tư giảm
được rủi ro trong quá trình mua bán chứng khoán; các nhà đầu tư khi mua chứng
khoán được đảm bảo sẽ nhận được chứng khoán thật, và các nhà đầu tư bán chứng
khoán sẽ được đảm bảo nhận được tiền sau khi giao chứng khoán hoàn thành, từ đó
các nhà đầu tư có niềm tin và sẵn sàng mua bán chứng khoán vì khả năng sinh lời.
Sáu là, CTCK giúp cơ quan nhà nước quản lý, giám sát hoạt động của TTCK.
CTCK cung cấp thông tin về TTCK cho các nhà đầu tư và các cơ quan quản
lý nhà nước nhằm quản lý TTCK hoạt động có hiệu quả. CTCK vừa là người bảo
lãnh phát hành chứng khoán đối với những chứng khoán mới, lại vừa là trung gian
mua bán chứng khoán và thực hiện các giao dịch mua bán của nhà đầu tư trên thị
trường; do vậy, các thông tin về nhà phát hành hay thông tin liên quan đến giao dịch
mua bán chứng khoán, hàng hoá chứng khoán, thông tin về tỷ lệ sở hữu của các nhà
đầu tư và các thông tin liên quan khác được CTCK báo cáo các cơ quan quản lý nhà
nước. Từ đó, các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực chứng khoán và TTCK có
thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường, giá
cả chứng khoán; nắm bắt được thực trạng TTCK để có các chính sách, giải pháp
thích hợp, hiệu quả cho quá trình phát triển của TTCK và nền kinh tế nói chung.
Bảy là, CTCK góp phần cải thiện môi trường đầu tư:
CTCK góp phần hình thành văn hoá đầu tư: CTCK với hoạt động trung gian
giữa người mua và người bán chứng khoán; do đó, khi CTCK đã đi sâu rộng vào
cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức và các nhà đầu tư thì hoạt động của CTCK và
nhân viên môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán là một yếu tố quan
trọng góp phần hình thành văn hoá đầu tư trên TTCK với những đặc điểm sau:
- Tạo ý thức và thói quen đầu tư trong xã hội: Giai đoạn trước khi có
TTCK và giai đoạn sơ khai thì tiền nhàn rỗi trong các gia đình, tổ chức thường
sử dụng để mua vàng, bất động sản, gửi ngân hàng, liên doanh liên kết, mua các
tài sản khác, trong khi đó nền kinh tế thiếu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế.
TTCK và CTCK ra đời và phát triển, các nhân viên môi giới tiếp cận với những
khách hàng tiềm năng với những sản phẩm tài chính phù hợp, được các nhà đầu
tư chấp nhận, nhân viên các CTCK sẽ giúp họ thực hiện qui trình, thủ tục đầu tư
trên TTCK và thường xuyên chăm sóc khách hàng theo hướng có lợi nhất cho